Danh mục

Tây Sơn xưng vương 2

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 126.23 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tây Sơn xưng vương 2Gia Ðịnh gồm các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Gia Ðịnh ở xa, nhà vua giao quyền cai trị cho cựu thần nhà Nguyễn đã quy thuận, để lo cho được chu đáo phần đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Nhà vua bỏ dinh, chỉ để phủ, huyện.Từ Bắc đến Nam có sáu phủ: Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận. Huyện ở dưới quyền phủ. Trừ phủ Quy Nhơn, ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn trực thuộc trung ương. Danh hiệu Tuần Phủ đổi là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tây Sơn xưng vương 2 Tây Sơn xưng vương 2Gia Ðịnh gồm các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ.Gia Ðịnh ở xa, nhà vua giao quyền cai trị cho cựu thần nhà Nguyễn đã quy thuận,để lo cho được chu đáo phần đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận.Nhà vua bỏ dinh, chỉ để phủ, huyện.Từ Bắc đến Nam có sáu phủ: Quảng Nam,Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận.Huyện ở dưới quyền phủ. Trừ phủ Quy Nhơn, ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, BồngSơn trực thuộc trung ương.Danh hiệu Tuần Phủ đổi là An Phủ Sứ, Phòng Ngự Sứ, An Phủ cầm đầu phủ lớn.Phòng ngự coi giữ phủ nhỏ[42].Quân số lúc bấy giờ phỏng chừng 15 vạn (150.000) Theo binh chế đời nh à Chu,binh chia làm 6 cấp: Quân, Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ. Ngũ gồm có 5 người. Lượnggồm có 5 ngũ tức 25 người. Tốt gồm có 4 lượng tức 100 người. Lữ gồm có 5 tốt,tức 500 người. Sư gồm có 5 lữ, tức 2.500 người. Quân gồm có 5 sư, tức 12.500người.Tổng số là 12 quân đoàn, có bộ binh và thủy binh. Binh chủng nào cũng tinh nhuệ.Ðặt biệt nhất là:- 2 quân đoàn người Thượng, với 2.000 chiến mã.- 4 lữ đoàn nữ binh, với 100 thớt voi.Hai quân đoàn người Thượng do Long Nhương Tướng Quân Nguyễn Huệ tổ chứcvà thường do Long Nhương chỉ huy.Người nào cũng cao lớn, gan dạ. Tay cầm mác hay cầm ná, lưng giắt dao bảy.Phóng mác trăm phát trăm trúng, bắn ná không cần nhắm cũng trúng đích. Lại cótài cỡi ngựa. Ngựa đang chạy, lên lưng một cách nhẹ nhàng gọn gàng, ngựa đangsải, nhảy xuống ngựa cũng gọn gàng lẹ làng không kém. Ra trận chỉ biết tới chớkhông biết lui.Họ hết lòng trung thành với chủ tướng. Ðó là vì chẳng những chủ tướng tài cao,lượng rộng, đối với họ hết nghĩa hết tình, mà còn vì tin chắc rằng chủ tướng làngười của Trời sai xuống điều khiển họ.Không phải họ tin mù quáng, mà chính mắt họ cũng thấy rõ ràng.Khi cùng Võ Ðình Tú quản lý Tây Sơn, Nguyễn Huệ thường đi chiêu mộ binhThượng. Một hôm, trời vừa hửng sáng, đám tân binh đi đến chân đ èo An Khê, thìtrong sương mờ, xa xa thấy hai con rắn mun cực kỳ to lớn. Không ai dám đi tới.Nguyễn Huệ chắp tay khấn:- Nếu quỷ thần có phù hộ tôi để tôi dựng nên nghiệp lớn thì xin tránh đường chotôi đi. Bằng không thì cắn chết tôi chớ đừng làm hại những người theo tôi.Khấn rồi đi tới. Hai rắn cuối xuống ngậm một thanh đao, cán đen nh ư mun, lưỡisáng như nước, kính cẩn dâng cho Nguyễn Huệ rồi bò vào bụi biến mất. Ðám tânbinh liền quỳ xuống tung hô Nguyễn Huệ là «Tướng nhà trời «.Thanh đao đó Nguyễn Huệ gọi là Ô Long Ðao và thường dùng lúc ra trận.Và để nhớ ơn quỷ thần tặng đao, một ngôi miếu dựng nơi chân đèo An Khê, tụcgọi là Miếu Xà. Người qua lại thường thắp hương cúng[43].Còn 4 lữ đoàn nữ binh thì do nữ tướng Bùi Thị Xuân và bà họ Trần vợ tướngNguyễn Văn Tuyết tổ chức và điều khiển.Bà họ Trần, song kiếm tuyệt luân, côn quyền cũng xuất chúng. Ngày ngày lo huấnluyện nữ binh. Giảng dạy rất kỹ, th ưởng phạt rất nghiêm. Võ nghệ của chị em ainấy đều tinh luyện. Ðứng xa nhìn chị em tập thì chẳng khác nhìn cánh đồng hoatrước gió nồm. Nhưng nếu bước đến gần thì sát khí đằng đằng đến lạnh mình dựngtóc.Còn voi thì do bà Bùi huấn luyện.Voi, phần của bà mua, phần do người Thượng tặng bà, phần là chiến lợi phẩm,cống phẩm... Bà thường dùng dãy gò ở Xuân Hòa, quê hương bà, để luyệnvoi[44].Voi đã được tập luyện thuần thục thì không cần người quản tượng. Voi mới thìmỗi thớt phải có một nữ binh cỡi khi tập.Ðể điều khiển voi, bà thường dùng ngọn cờ đỏ. Khi bà chưa ra diễn trường, thì voiđi đứng lộn xộn. Ra diễn trường, bà phất ngọn cờ thì con voi đầu đàn vội đến đứngnghiêm chỉnh trước mặt bà. Bà lẹ làng nhảy lên voi, vỗ nhẹ đầu voi. Voi cong vòirống lên một tiếng. Tất cả đàn voi răm rắp đến sắp hàng ngay ngắn trước đầu voiđầu đàn. Rồi theo hiệu cờ, tới lui, rẽ bên nam, sang bên bắc, khi chậm khi mau,nhịp nhàng đều đặn.Ban đầu phải tập từng thớt một.Sau mới tập từng đoàn.Khi tập từng đoàn, thì nữ quản tượng nào đi kèm theo voi nấy. Hàng ngũ sắpchỉnh tề rồi. Nữ tướng phất cờ hiệu, tất cả nữ quản tượng nhảy lên voi một lượt,gọn và nhanh như người kỵ mã có tài nhảy lên lưng ngựa. Rồi theo hiệu cờ màtập... Thân vóc voi ngó nặng nề, mà bước chân voi trông lẹ làng lanh lẹ. Khí thếhùng dũng như gió cuốn sóng dồn, nhưng diễn trường im phăng phắc, khách bàngquan không nghe tiếng, chỉ thấy hình, những hình sống động vừa mạnh mẽ vừađẹp đẽ, nửa cổ kính nửa tân kỳ... Tập xong, theo hiệu cờ, đoàn nữ quản tượngnhảy xuống voi cũng lẹ làng nhịp nhàng, với những nụ cười đắc ý.Voi được luyện kỹ càng rồi mới đưa xuống Hoàng Ðế Thành. Ai điều khiển cũngđược.Quân số cần phải gia tăng mới đánh Nam dẹp Bắc.Nhưng lính phải mộ chớ không bắt.Và những lính cũ bị đau yếu được cho về nhà hoặc đưa lên các trại sản xuất đểđiều dưỡng nghỉ ngơi cho đến khi mạnh. Những nông dân ở các trại đã được huấnluyện quân sự rồi thì nhập ngũ để thay những người đi nghỉ, hoặc để thêm vào sốquân đương cần.Vì chế độ rộng rãi nên quân số gia tăng một c ...

Tài liệu được xem nhiều: