Thận trọng với những nhân tố rủi ro
Số trang: 3
Loại file: doc
Dung lượng: 49.00 KB
Lượt xem: 2
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bốn nhân tố rủi ro đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng của các nhà hoạch định chính sách trong những năm tới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thận trọng với những nhân tố rủi roThận trọng với những nhân tố rủi ro Bốn nhân tố rủi ro đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng của các nhà hoạch định chính sách trong những năm tới. Jonathan Pincus & Vũ Thành Tự Anh Nền kinh tế Việt Nam đang diễn biến nhanh và ngày càng trở nên phứctạp. Việc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đầu năm nay đã tạo nênmột làn sóng hứng khởi, được phản ánh trong hầu hết các chỉ số kinh tế quan trọng. Giá cổphiếu tăng vọt, đầu tư trực tiếp của nước ngoài có thể tăng tới 60% so với năm 2006, xuất khẩutăng 19,4% và sản lượng công nghiệp tăng 16,9% trong sáu tháng đầu năm. Kết quả là ở thờiđiểm này, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái.Ở Việt Nam hiện đang có rất nhiều cơ hội, và dường như mọi người đều đồng ý rằng triển vọngtrung hạn của nền kinh tế là rất khả quan. Tuy nhiên, chính trong lúc này chúng ta cần phảicảnh giác trước những nhân tố rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn.Việt Nam là một nước nhập khẩu vốn. Đây là một đặc điểm vĩ mô quan trọng của nền kinh tế.Trong những năm gần đây, Việt Nam duy trì được một tỷ lệ đầu tư rất cao. Tuy nhiên, khác vớiTrung Quốc, đầu tư của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tiết kiệm nước ngoài dưới hình thức đầutư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FPI), các khoản vay, và các khoản chuyển giao khác.Rủi ro từ vay thương mạiHiện nay, xuất khẩu của Việt Nam đang tăng trưởng rất cao nhưng tốc độ tăng trưởng nhậpkhẩu còn cao hơn. Điều này là tự nhiên và sẽ không trở thành một nhân tố rủi ro nếu như vốnđược nhập khẩu vào dưới dạng FDI, vì khi ấy các nhà đầu tư nước ngoài sẽ gánh chịu hầu hếtmọi rủi ro kinh tế.Tuy nhiên, nếu như một phân lượng lớn vốn nhập khẩu vào dưới dạng các khoản vay thươngmại thì Việt Nam có thể rơi vào tình huống mà các nhà kinh tế học gọi là vấn đề “tích lượng - lưulượng” (“stock-flow” problem). Khi các doanh nghiệp nội địa và chính phủ vay nợ nước ngoài, họphải chịu gần như tất cả các rủi ro kinh tế. Nếu tỷ lệ hoàn vốn nhập khẩu không đủ cao để bùđắp chi phí thì khi ấy để có đủ ngoại tệ trả nợ Việt Nam sẽ phải thắt chặt tiêu dùng nội địa,đồng thời lãi suất sẽ tăng. Điều này sẽ dẫn tới suy giảm tăng trưởng kinh tế và gây khó khăncho các doanh nghiệp và người lao động.Rủi ro này thậm chí còn có thể lớn hơn nữa khi các chủ thể kinh tế trong nước vay bằng ngoạitệ, như đô la Mỹ chẳng hạn. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, hầu hết cácdoanh nghiệp của châu Á không còn mặn mà với việc vay đô la Mỹ nữa, trừ phi họ có thể phòngvệ (hedge) các rủi ro tỷ giá trên các thị trường tương lai. Vì Việt Nam chưa có thị trường tươnglai nên khi Chính phủ và doanh nghiệp vay bằng đô la, họ sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro về tỷ giá.Nếu tiền đồng của Việt Nam giảm giá so với đồng đô la Mỹ thì Chính phủ và doanh nghiệp sẽgặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ này.Như vậy, rủi ro đầu tiên mà Việt Nam có thể gặp phải là khả năng nó tích lũy quá nhiều và quánhanh nợ ngoại tệ. Điều này có thể làm tăng xác suất của việc lợi nhuận từ các khoản đầu tưnày không đủ để trả lãi cho các khoản nợ đã tích lũy. Khi các doanh nghiệp lớn nhất của ViệtNam đang tích cực tham gia vay vốn từ thị trường vốn quốc tế, họ cần đảm bảo rằng các khoảnđầu tư của họ ở thị trường nội địa đem lại lượng ngoại tệ đủ lớn để có thể trả nợ. Vì tất cả cácdoanh nghiệp này đều là doanh nghiệp nhà nước, và vì những khoản vay này thường được bảolãnh (công khai hay ngầm) của Nhà nước nên Nhà nước có thể mất đi sự linh hoạt ở mức độnhất định trong việc điều hành chính sách vĩ mô.Rủi ro biến động tỷ giáRủi ro tiềm tàng thứ hai là sự biến động của tỷ giá tiền đồng so với đồng tiền của các đối tácthương mại quốc tế. Khi tiền đổ vào Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải theo dõilượng cung tiền trong lưu thông thật cẩn thận để tránh tình trạng lạm phát giá và tăng tỷ giáthực. Tỷ giá thực là giá trị của đồng tiền sau khi đã điều chỉnh sự khác biệt giữa tỷ lệ lạm phátgiá trong nước và quốc tế.Vấn đề của việc tăng tỷ giá thực nằm ở chỗ nó làm cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trởnên đắt hơn, đồng thời làm sản phẩm nhập khẩu trở nên rẻ hơn. Vì vậy, khi tỷ giá thực của tiềnđồng Việt Nam trở nên mạnh hơn, các công ty của Việt Nam sẽ khó xuất khẩu hơn, còn ngườitiêu dùng nội địa lại được lợi nhờ hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn. Kết quả là làm trầm trọng thêmtình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, và do vậy sẽ cần nhập khẩu vốn nhiều hơn nữa.Tỷ giá thực của Việt Nam so với đồng đô la Mỹ đã biến động đáng kể trong những năm qua.Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) ước tính rằng tỷ giá thực của tiền đồng đã tăng khoảng hơn 30%trong giai đoạn 1992 - 2000, sau đó giữ ổn định trong vài năm sau đó. Như có thể thấy từ đồ thị,mặc dù giá trị danh nghĩa của tiền đồng Việt Nam khá ổn định, nhưng sự chênh lệch giữa tỷ lệlạm phát giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ đã và đang được nới rộng. Điều này có nghĩa là tỷgiá thực của tiền đồng so với đô la Mỹ đã tăng khoảng 15% trong thời gian 2002-2007. Hơn nữa,có nhiều lý do để tin rằng tỷ lệ lạm phát công bố của Việt Nam thấp hơn tỷ lệ lạm phát thực tế.Rủi ro về bong bóng tài sảnMột vấn đề khác khi tỷ giá thực tăng là nó khuyến khích các tổ chức và cá nhân Việt Nam thựchiện các khoản vay bằng ngoại tệ, vì khi ấy chi phí vay có vẻ rẻ hơn so với khi vay bằng tiềnđồng. Nếu các công ty Việt Nam vay ngoại tệ để mua tài sản như đất đai và chứng khoán thìbong bóng đầu tư có thể phình to, đẩy giá tài sản lên cao tới mức không còn bền vững nữa.Bong bóng tài sản rất nguy hiểm cho nền kinh tế vì khi bong bóng nổ, giá tài sản sẽ giảm vànhiều con nợ mất khả năng trả nợ, còn các ngân hàng nội địa sẽ bị ảnh hưởng nếu họ cho vayđầu tư vào những tài sản này.Sự phát triển của bong bóng tài sản vì vậy là rủi ro tiềm tàng thứ ba của nền kinh tế Việt Nam.Bằng chứng trực quan cho thấy rằng nhiều công ty của Việt Nam đã và đang ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thận trọng với những nhân tố rủi roThận trọng với những nhân tố rủi ro Bốn nhân tố rủi ro đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng của các nhà hoạch định chính sách trong những năm tới. Jonathan Pincus & Vũ Thành Tự Anh Nền kinh tế Việt Nam đang diễn biến nhanh và ngày càng trở nên phứctạp. Việc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đầu năm nay đã tạo nênmột làn sóng hứng khởi, được phản ánh trong hầu hết các chỉ số kinh tế quan trọng. Giá cổphiếu tăng vọt, đầu tư trực tiếp của nước ngoài có thể tăng tới 60% so với năm 2006, xuất khẩutăng 19,4% và sản lượng công nghiệp tăng 16,9% trong sáu tháng đầu năm. Kết quả là ở thờiđiểm này, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái.Ở Việt Nam hiện đang có rất nhiều cơ hội, và dường như mọi người đều đồng ý rằng triển vọngtrung hạn của nền kinh tế là rất khả quan. Tuy nhiên, chính trong lúc này chúng ta cần phảicảnh giác trước những nhân tố rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn.Việt Nam là một nước nhập khẩu vốn. Đây là một đặc điểm vĩ mô quan trọng của nền kinh tế.Trong những năm gần đây, Việt Nam duy trì được một tỷ lệ đầu tư rất cao. Tuy nhiên, khác vớiTrung Quốc, đầu tư của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tiết kiệm nước ngoài dưới hình thức đầutư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FPI), các khoản vay, và các khoản chuyển giao khác.Rủi ro từ vay thương mạiHiện nay, xuất khẩu của Việt Nam đang tăng trưởng rất cao nhưng tốc độ tăng trưởng nhậpkhẩu còn cao hơn. Điều này là tự nhiên và sẽ không trở thành một nhân tố rủi ro nếu như vốnđược nhập khẩu vào dưới dạng FDI, vì khi ấy các nhà đầu tư nước ngoài sẽ gánh chịu hầu hếtmọi rủi ro kinh tế.Tuy nhiên, nếu như một phân lượng lớn vốn nhập khẩu vào dưới dạng các khoản vay thươngmại thì Việt Nam có thể rơi vào tình huống mà các nhà kinh tế học gọi là vấn đề “tích lượng - lưulượng” (“stock-flow” problem). Khi các doanh nghiệp nội địa và chính phủ vay nợ nước ngoài, họphải chịu gần như tất cả các rủi ro kinh tế. Nếu tỷ lệ hoàn vốn nhập khẩu không đủ cao để bùđắp chi phí thì khi ấy để có đủ ngoại tệ trả nợ Việt Nam sẽ phải thắt chặt tiêu dùng nội địa,đồng thời lãi suất sẽ tăng. Điều này sẽ dẫn tới suy giảm tăng trưởng kinh tế và gây khó khăncho các doanh nghiệp và người lao động.Rủi ro này thậm chí còn có thể lớn hơn nữa khi các chủ thể kinh tế trong nước vay bằng ngoạitệ, như đô la Mỹ chẳng hạn. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, hầu hết cácdoanh nghiệp của châu Á không còn mặn mà với việc vay đô la Mỹ nữa, trừ phi họ có thể phòngvệ (hedge) các rủi ro tỷ giá trên các thị trường tương lai. Vì Việt Nam chưa có thị trường tươnglai nên khi Chính phủ và doanh nghiệp vay bằng đô la, họ sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro về tỷ giá.Nếu tiền đồng của Việt Nam giảm giá so với đồng đô la Mỹ thì Chính phủ và doanh nghiệp sẽgặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ này.Như vậy, rủi ro đầu tiên mà Việt Nam có thể gặp phải là khả năng nó tích lũy quá nhiều và quánhanh nợ ngoại tệ. Điều này có thể làm tăng xác suất của việc lợi nhuận từ các khoản đầu tưnày không đủ để trả lãi cho các khoản nợ đã tích lũy. Khi các doanh nghiệp lớn nhất của ViệtNam đang tích cực tham gia vay vốn từ thị trường vốn quốc tế, họ cần đảm bảo rằng các khoảnđầu tư của họ ở thị trường nội địa đem lại lượng ngoại tệ đủ lớn để có thể trả nợ. Vì tất cả cácdoanh nghiệp này đều là doanh nghiệp nhà nước, và vì những khoản vay này thường được bảolãnh (công khai hay ngầm) của Nhà nước nên Nhà nước có thể mất đi sự linh hoạt ở mức độnhất định trong việc điều hành chính sách vĩ mô.Rủi ro biến động tỷ giáRủi ro tiềm tàng thứ hai là sự biến động của tỷ giá tiền đồng so với đồng tiền của các đối tácthương mại quốc tế. Khi tiền đổ vào Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải theo dõilượng cung tiền trong lưu thông thật cẩn thận để tránh tình trạng lạm phát giá và tăng tỷ giáthực. Tỷ giá thực là giá trị của đồng tiền sau khi đã điều chỉnh sự khác biệt giữa tỷ lệ lạm phátgiá trong nước và quốc tế.Vấn đề của việc tăng tỷ giá thực nằm ở chỗ nó làm cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trởnên đắt hơn, đồng thời làm sản phẩm nhập khẩu trở nên rẻ hơn. Vì vậy, khi tỷ giá thực của tiềnđồng Việt Nam trở nên mạnh hơn, các công ty của Việt Nam sẽ khó xuất khẩu hơn, còn ngườitiêu dùng nội địa lại được lợi nhờ hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn. Kết quả là làm trầm trọng thêmtình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, và do vậy sẽ cần nhập khẩu vốn nhiều hơn nữa.Tỷ giá thực của Việt Nam so với đồng đô la Mỹ đã biến động đáng kể trong những năm qua.Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) ước tính rằng tỷ giá thực của tiền đồng đã tăng khoảng hơn 30%trong giai đoạn 1992 - 2000, sau đó giữ ổn định trong vài năm sau đó. Như có thể thấy từ đồ thị,mặc dù giá trị danh nghĩa của tiền đồng Việt Nam khá ổn định, nhưng sự chênh lệch giữa tỷ lệlạm phát giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ đã và đang được nới rộng. Điều này có nghĩa là tỷgiá thực của tiền đồng so với đô la Mỹ đã tăng khoảng 15% trong thời gian 2002-2007. Hơn nữa,có nhiều lý do để tin rằng tỷ lệ lạm phát công bố của Việt Nam thấp hơn tỷ lệ lạm phát thực tế.Rủi ro về bong bóng tài sảnMột vấn đề khác khi tỷ giá thực tăng là nó khuyến khích các tổ chức và cá nhân Việt Nam thựchiện các khoản vay bằng ngoại tệ, vì khi ấy chi phí vay có vẻ rẻ hơn so với khi vay bằng tiềnđồng. Nếu các công ty Việt Nam vay ngoại tệ để mua tài sản như đất đai và chứng khoán thìbong bóng đầu tư có thể phình to, đẩy giá tài sản lên cao tới mức không còn bền vững nữa.Bong bóng tài sản rất nguy hiểm cho nền kinh tế vì khi bong bóng nổ, giá tài sản sẽ giảm vànhiều con nợ mất khả năng trả nợ, còn các ngân hàng nội địa sẽ bị ảnh hưởng nếu họ cho vayđầu tư vào những tài sản này.Sự phát triển của bong bóng tài sản vì vậy là rủi ro tiềm tàng thứ ba của nền kinh tế Việt Nam.Bằng chứng trực quan cho thấy rằng nhiều công ty của Việt Nam đã và đang ...
Tài liệu liên quan:
-
6 trang 184 0 0
-
QUYẾT ĐỊNH Về việc ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 5)
61 trang 178 0 0 -
Đề tài: Thực trạng thanh toán tiền măt ở nước ta
9 trang 144 0 0 -
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN- CHUẨN MỰC SỐ 2- HÀNG TỒN KHO
6 trang 139 0 0 -
112 trang 110 0 0
-
Phân tích cơ bản - vàng và ngoại tệ
42 trang 97 0 0 -
Kế toán thực chứng: Hướng đúng phát triển ngành kế toán Việt Nam?
11 trang 92 0 0 -
27 trang 86 0 0
-
Không ưu đãi thuế, quỹ mở phải… khép
3 trang 85 0 0 -
Chính thức công bố kế hoạch cải cách hệ thống thuế
2 trang 79 0 0