Tiếp cận có sự tham gia của các bên và phương pháp liên ngành trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững ở Việt Nam
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 476.70 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Tiếp cận có sự tham gia của các bên và phương pháp liên ngành trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững ở Việt Nam" đánh giá các bài báo và tài liệu về "tiếp cận có sự tham gia của các bên", "phương pháp liên ngành" với mục tiêu làm sáng tỏ về định nghĩa, khái niệm, các nguyên tắc chính và giới hạn của cách tiếp cận có sự tham gia của các bên, phương pháp liên ngành sử dụng trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp cận có sự tham gia của các bên và phương pháp liên ngành trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững ở Việt Nam QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA CỦA CÁC BÊN VÀ PHƯƠNG PHÁP LIÊN NGÀNH TRONG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Nguyễn Thái Huyền* Lê Việt Dũng** Trương Chí Quang*** Dương Thị Ngọc Oanh**** Tóm tắt: Bài viết đánh giá các bài báo và tài liệu về 'tiếp cận có sự tham gia của các bên', 'phương pháp liên ngành' với mục tiêu làm sáng tỏ về định nghĩa, khái niệm, các nguyên tắc chính và giới hạn của cách tiếp cận có sự tham gia của các bên, phương pháp liên ngành sử dụng trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững. Bài viết không chỉ dựa trên các lý thuyết và các trường hợp nghiên cứu quốc tế mà còn nghiên cứu khuôn khổ pháp lý và những thực tiễn quy hoạch xây dựng của Việt Nam để làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt về bối cảnh cần được lưu ý để hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Bài viết có xem xét đến nhiều kinh nghiệm, tầm nhìn về hợp tác liên ngành và nhận diện khả năng ứng dụng trong quy hoạch phát triển bền vững ở Việt Nam. Từ khóa: Bền vững; Liên ngành; Living labs; Tham gia; Tiếp cận. 1. Lý thuyết về tiếp cận có sự tham gia của các bên và phương pháp liên ngành trong quy hoạch 1.1. Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của các bên Sự phổ biến của các phương pháp tiếp cận từ trên xuống để thực hiện phát triển chủ yếu là kết quả của lý thuyết hiện đại hóa vốn thịnh hành trong những năm 1960 (Lane, 1995). Lý thuyết hiện đại hóa phỏng đoán rằng để các nước đang phát triển có thể phát triển, các nước đó cần tăng * Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Trưởng bộ môn chuyên ngành 2, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, email: huyen.nt@hau.edu.vn. ** Tiến sĩ, Phó giáo sư, nguyên Phó hiệu trưởng, Trường Đại học Cần Thơ, email: lvdung@ctu.edu.vn. *** Tiến sĩ, Giảng viên, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ, email: tcquang@ctu.edu.vn. **** Thạc sĩ, Giảng viên, Khoa Quy hoạch Đô thị và nông thôn, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, email: oanhdtn@hau.edu.vn. 314 RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT trưởng kinh tế theo con đường mà các nước phương Tây đã đi (Hulme & Turner, 1990; Peet & Hartwick, 2009; So, 1990). Ngày nay, khi quá trình đô thị hóa đang diễn ra và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, để tạo ra và áp dụng các đổi mới và giải pháp bền vững trong khu vực đô thị, sự tham gia của cộng đồng đã được công nhận là một trong những nguyên tắc cốt lõi của phát triển bền vững. Việc ra quyết định thường dựa trên một loạt dữ liệu định tính và định lượng liên quan đến các chỉ số vật lý và các xu hướng. Sự tham gia là một khái niệm rất rộng (Lane, 1995) có nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau (Hussein và c.s., 1995) và (Kelly, 2001). Thuật ngữ này thường được sử dụng bởi những người có lập trường tư tưởng khác nhau, gắn cho nó những ý nghĩa rất khác nhau (Nelson & Wright, 1995). Pelling vào năm 1998 đã xác định rằng sự tham gia là một khái niệm tranh cãi về mặt tư tưởng, nó tạo ra một loạt các ý nghĩa cạnh tranh và các ứng dụng (Pelling, 1998). Kết quả là nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định sự tham gia, đối tượng dự kiến sẽ tham gia, dự kiến đạt được những gì và nó sẽ mang lại hiệu quả như thế nào (Agarwal, 2001). Sự tham gia của cộng đồng cần được hiểu là một quá trình trong đó tất cả các bên liên quan bao gồm cả những người bị ảnh hưởng đều tham gia vào việc ra quyết định về các công trình phát triển và cung cấp hàng hóa và dịch vụ công. Sự tham gia của mọi người có thể được thực hiện theo nhiều cách và bằng các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, chúng phải được thiết kế và làm cho phù hợp với các đặc điểm của nhiệm vụ cần hoàn thành, và của nền văn hóa đang được thực hành và trau dồi. 1.2. Phương pháp tiếp cận liên ngành Liên ngành đã trở thành một câu thần chú phổ biến cho nghiên cứu, đi kèm với số lượng các ấn phẩm ngày càng tăng. Tuy nhiên, đánh giá vẫn là một trong những khía cạnh ít được hiểu rõ nhất. Bài viết đánh giá tổng quan về nghiên cứu liên ngành và xuyên ngành này phân loại các bài học từ các tài liệu quốc tế nổi bật về chủ đề được xem xét vào năm 2007. Nó xác định sự tương đồng giữa hiệu suất nghiên cứu và đánh giá, trình bày bảy nguyên tắc chung để đánh giá và phản ánh trong phần kết luận về việc thay đổi nội hàm của các khái niệm cơ bản về kỷ luật, ngang hàng và đo lường. Đánh giá và thực hiện nghiên cứu liên ngành và xuyên ngành đều là quá trình tổng hợp của việc thu hoạch, tận dụng vốn và tận dụng nhiều kiến thức chuyên môn. Các tiêu chuẩn riêng lẻ phải được hiệu chỉnh và sự căng thẳng giữa các phương pháp tiếp cận kỷ luật, chuyên nghiệp và liên ngành khác nhau được quản lý cẩn thận trong việc cân bằng các hành vi cần đòi hỏi thương lượng và thỏa hiệp. Mức độ sẵn sàng được củng cố bởi các điều kiện tiền lệ đủ linh hoạt để cho phép nhiều hướng tích hợp và cộng tác. Trong cả hai trường hợp, các cộng đồng nhận thức mới phải được xây dựng và tạo ra các nền văn hóa chứng cứ mới. Môi trường nghiên cứu đa ngành - liên ngành - xuyên ngành trải dài trên nhiều bối cảnh. Hợp tác hoặc nghiên cứu liên ngành liên quan đến sự kết hợp của hai hoặc nhiều lĩnh vực học thuật vào một hoạt động (ví dụ: một dự án nghiên cứu). Nó khai thác kiến thức từ một số lĩnh vực khác nhau như xã hội học, nhân chủng học, tâm lý học, kinh tế học, v.v. Hoạt động đó chính là việc tạo ra một cái gì đó bằng cách suy nghĩ xuyên ranh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp cận có sự tham gia của các bên và phương pháp liên ngành trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững ở Việt Nam QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TIẾP CẬN CÓ SỰ THAM GIA CỦA CÁC BÊN VÀ PHƯƠNG PHÁP LIÊN NGÀNH TRONG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Nguyễn Thái Huyền* Lê Việt Dũng** Trương Chí Quang*** Dương Thị Ngọc Oanh**** Tóm tắt: Bài viết đánh giá các bài báo và tài liệu về 'tiếp cận có sự tham gia của các bên', 'phương pháp liên ngành' với mục tiêu làm sáng tỏ về định nghĩa, khái niệm, các nguyên tắc chính và giới hạn của cách tiếp cận có sự tham gia của các bên, phương pháp liên ngành sử dụng trong quy hoạch đô thị và phát triển bền vững. Bài viết không chỉ dựa trên các lý thuyết và các trường hợp nghiên cứu quốc tế mà còn nghiên cứu khuôn khổ pháp lý và những thực tiễn quy hoạch xây dựng của Việt Nam để làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt về bối cảnh cần được lưu ý để hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Bài viết có xem xét đến nhiều kinh nghiệm, tầm nhìn về hợp tác liên ngành và nhận diện khả năng ứng dụng trong quy hoạch phát triển bền vững ở Việt Nam. Từ khóa: Bền vững; Liên ngành; Living labs; Tham gia; Tiếp cận. 1. Lý thuyết về tiếp cận có sự tham gia của các bên và phương pháp liên ngành trong quy hoạch 1.1. Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của các bên Sự phổ biến của các phương pháp tiếp cận từ trên xuống để thực hiện phát triển chủ yếu là kết quả của lý thuyết hiện đại hóa vốn thịnh hành trong những năm 1960 (Lane, 1995). Lý thuyết hiện đại hóa phỏng đoán rằng để các nước đang phát triển có thể phát triển, các nước đó cần tăng * Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Trưởng bộ môn chuyên ngành 2, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, email: huyen.nt@hau.edu.vn. ** Tiến sĩ, Phó giáo sư, nguyên Phó hiệu trưởng, Trường Đại học Cần Thơ, email: lvdung@ctu.edu.vn. *** Tiến sĩ, Giảng viên, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ, email: tcquang@ctu.edu.vn. **** Thạc sĩ, Giảng viên, Khoa Quy hoạch Đô thị và nông thôn, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, email: oanhdtn@hau.edu.vn. 314 RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT trưởng kinh tế theo con đường mà các nước phương Tây đã đi (Hulme & Turner, 1990; Peet & Hartwick, 2009; So, 1990). Ngày nay, khi quá trình đô thị hóa đang diễn ra và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, để tạo ra và áp dụng các đổi mới và giải pháp bền vững trong khu vực đô thị, sự tham gia của cộng đồng đã được công nhận là một trong những nguyên tắc cốt lõi của phát triển bền vững. Việc ra quyết định thường dựa trên một loạt dữ liệu định tính và định lượng liên quan đến các chỉ số vật lý và các xu hướng. Sự tham gia là một khái niệm rất rộng (Lane, 1995) có nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau (Hussein và c.s., 1995) và (Kelly, 2001). Thuật ngữ này thường được sử dụng bởi những người có lập trường tư tưởng khác nhau, gắn cho nó những ý nghĩa rất khác nhau (Nelson & Wright, 1995). Pelling vào năm 1998 đã xác định rằng sự tham gia là một khái niệm tranh cãi về mặt tư tưởng, nó tạo ra một loạt các ý nghĩa cạnh tranh và các ứng dụng (Pelling, 1998). Kết quả là nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định sự tham gia, đối tượng dự kiến sẽ tham gia, dự kiến đạt được những gì và nó sẽ mang lại hiệu quả như thế nào (Agarwal, 2001). Sự tham gia của cộng đồng cần được hiểu là một quá trình trong đó tất cả các bên liên quan bao gồm cả những người bị ảnh hưởng đều tham gia vào việc ra quyết định về các công trình phát triển và cung cấp hàng hóa và dịch vụ công. Sự tham gia của mọi người có thể được thực hiện theo nhiều cách và bằng các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, chúng phải được thiết kế và làm cho phù hợp với các đặc điểm của nhiệm vụ cần hoàn thành, và của nền văn hóa đang được thực hành và trau dồi. 1.2. Phương pháp tiếp cận liên ngành Liên ngành đã trở thành một câu thần chú phổ biến cho nghiên cứu, đi kèm với số lượng các ấn phẩm ngày càng tăng. Tuy nhiên, đánh giá vẫn là một trong những khía cạnh ít được hiểu rõ nhất. Bài viết đánh giá tổng quan về nghiên cứu liên ngành và xuyên ngành này phân loại các bài học từ các tài liệu quốc tế nổi bật về chủ đề được xem xét vào năm 2007. Nó xác định sự tương đồng giữa hiệu suất nghiên cứu và đánh giá, trình bày bảy nguyên tắc chung để đánh giá và phản ánh trong phần kết luận về việc thay đổi nội hàm của các khái niệm cơ bản về kỷ luật, ngang hàng và đo lường. Đánh giá và thực hiện nghiên cứu liên ngành và xuyên ngành đều là quá trình tổng hợp của việc thu hoạch, tận dụng vốn và tận dụng nhiều kiến thức chuyên môn. Các tiêu chuẩn riêng lẻ phải được hiệu chỉnh và sự căng thẳng giữa các phương pháp tiếp cận kỷ luật, chuyên nghiệp và liên ngành khác nhau được quản lý cẩn thận trong việc cân bằng các hành vi cần đòi hỏi thương lượng và thỏa hiệp. Mức độ sẵn sàng được củng cố bởi các điều kiện tiền lệ đủ linh hoạt để cho phép nhiều hướng tích hợp và cộng tác. Trong cả hai trường hợp, các cộng đồng nhận thức mới phải được xây dựng và tạo ra các nền văn hóa chứng cứ mới. Môi trường nghiên cứu đa ngành - liên ngành - xuyên ngành trải dài trên nhiều bối cảnh. Hợp tác hoặc nghiên cứu liên ngành liên quan đến sự kết hợp của hai hoặc nhiều lĩnh vực học thuật vào một hoạt động (ví dụ: một dự án nghiên cứu). Nó khai thác kiến thức từ một số lĩnh vực khác nhau như xã hội học, nhân chủng học, tâm lý học, kinh tế học, v.v. Hoạt động đó chính là việc tạo ra một cái gì đó bằng cách suy nghĩ xuyên ranh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Hội thảo Quản trị rủi ro và phát triển đô thị Quy hoạch đô thị Phát triển bền vững đô thị Lý thuyết hiện đại hóa Lập quy hoạch tích hợpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị
32 trang 378 0 0 -
Yếu tố nhận diện người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
11 trang 315 0 0 -
197 trang 275 0 0
-
Cách tính nhanh giá trị riêng của ma trận vuông cấp 2 và cấp 3
4 trang 269 0 0 -
Một số vấn đề về chuyển đổi số và ứng dụng trong doanh nghiệp
11 trang 256 0 0 -
Chỉ số chống chịu của các đô thị Việt Nam – Báo cáo chứng minh khái niệm
113 trang 252 0 0 -
Quản lý dữ liệu thông tin người hưởng bảo hiểm xã hội
6 trang 224 0 0 -
Thuật toán khai phá tập mục thường xuyên trong cơ sở dữ liệu lớn thông qua mẫu đại diện
11 trang 219 0 0 -
11 trang 205 0 0
-
Phương pháp nhận diện biển số xe ô tô sử dụng học máy và thư viện OpenCV
6 trang 203 0 0