Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu
Số trang: 16
Loại file: pdf
Dung lượng: 843.04 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong diễn trình lịch sử của dân tộc, danh xưng hành chính của khu vực miền núi Nghệ An nói chung, Quỳ Châu nói riêng đã trải qua nhiều lần thay đổi, nhưng không phải tất cả mọi thay đổi đều được ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng trong sử sách. Đó chính là trở ngại lớn nhất đối với công việc phục dựng lại diên cách địa lý hành chính Quỳ Châu qua hàng nghìn năm lịch sử. Hiện nay, Quỳ Châu là một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Nghệ An, nhưng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu Trong diễn trình lịch sử của dân tộc, danh xưng hành chính của khu vực miền núi Nghệ An nói chung, Quỳ Châu nói riêng đã trải qua nhiều lần thay đổi, nhưng không phải tất cả mọi thay đổi đều được ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng trong sử sách. Đó chính là trở ngại lớn nhất đối với công việc phục dựng lại diên cách địa lý hành chính Quỳ Châu qua hàng nghìn năm lịch sử. Hiện nay, Quỳ Châu là một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Nghệ An, nhưng trong quá khứ Quỳ Châu đã từng tồn tại với những danh xưng hành chính: CHÂU, PHỦ, HUYỆN và lệ thuộc vào các địa dư khác nhau. Việc tìm hiểu và làm sáng tỏ quá trình lịch sử hình thành và thay đổi của danh xưng Quỳ Châu không chỉ đáp ứng nguyện vọng c 1. Sự hình thành danh xưng Quỳ Châu Thông thường sự ra đời, sự thay đổi của một địa danh hành chính (bất kỳ ở cấp độ nào) cũng đều phải được quyết định bởi một cá nhân hay một cơ quan quyền lực nhà nước nhất định. Danh xưng hành chính của một địa phương bao giờ cũng nằm trong hệ thống hành chính của cả nước. Quỳ Châu là một vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời, đó là điều đã được khẳng định. Nhưng danh xưng hành chính của nó xuất hiện từ bao giờ và thay đổi ra sao thì chưa được minh chứng rõ ràng. Sử cũ chép rằng, hệ thống hành chính của nước ta thời Văn Lang - Âu Lạc gồm 15 bộ (hay bộ lạc), trong đó có bộ Hoài Hoan. Miền đất Quỳ Châu ngày nay của tỉnh Nghệ An xưa kia từng là một phần trong địa dư của bộ Hoài Hoan. Trên vùng đất ấy đã hình thành nên nh ững điểm tụ cư có quy mô khác nhau, tồn tại dưới dạng các công xã thị tộc hoặc liên minh thị tộc (bộ lạc). Mỗi điểm tụ cư như vậy có thể có một tên gọi riêng gắn liền với đặc điểm tự nhiên của nơi cư trú (núi, sông, khe suối, hang động…) hoặc nguồn gốc lịch sử dân cư. Tuy nhiên, chưa hẳn đó đã là những địa danh hành chính. Các tài liệu thư tịch cổ đều xác nhận, thuở các vua Hùng dựng nước Văn Lang, các tụ điểm dân cư thường có tên gọi là kẻ (hay cổ) ở đồng bằng; động, sách, nguồn ở miền núi; vạn ở những vùng ven sông, ven biển; đó chỉ là những vùng quê được hình thành tự nhiên chứ chưa phải là các đơn vị hành chính. Đây là một thực trạng của xã hội Hoài Hoan từ thời dựng nước cho đến trước khi bị phong kiến phương Bắc xâm lược. Từ năm 179 tr.CN đến năm 938, đất nước ta phải chịu sự đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Để phục cho công cuộc cai trị và bóc lột, chúng đã nhiều lần thay đổi hệ thống hành chính của nước ta. Trong buổi đầu của thời kỳ Bắc thuộc, huyện Hàm Hoan (quận Cửu Chân) tương ứng với vùng đất của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Các sách, động, nguồn ở miền rừng núi của huyện Hàm Hoan vẫn tồn tại độc lập như trước và chưa bị sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền đô hộ. Nhưng sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán đã bãi bỏ chế độ dung dưỡng, tăng cường chế độ đô hộ bằng cách đưa quan lại và binh lính người Hán sang trực tiếp cai trị nhân dân Âu Lạc; chính sách cai trị của chính quyền đô hộ ở huyện Hàm Hoan bắt đầu được xiết chặt hơn. Năm 269, quân Ngô dưới sự chỉ huy của Thái thú Đào Hoàng đã tiến đánh Cửu Chân, khi đến huyện Hàm Hoan đã gặp phải chống trả quyết liệt của nhân dân địa phương. Sử cũ chép: Bấy giờ Hàm Hoan “địa thế hiểm trở, người di lạo (1) hung tợn, đã mấy đời không chịu thần phục” . Đào Hoàng đem quân đánh phá khắp nơi, mở rộng vùng cai trị ra xa trung tâm, lập thêm nhiều huyện mới (30 huyện và “thổ dân có đến hàng nghìn người”), nhưng không ghi rõ là những huyện nào. Chỉ biết rằng sau khi Đào Hoàng chết (khoảng năm 299), nhà Đông Ngô đã tách phần Nam huyện Hàm Hoan ra, đặt thành một quận mới: quận Cửu Đức (tức vùng đất thuộc Nam Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). Năm 523, nhà Lương bỏ đơn vị hành chính cấp quận, đổi quận thành châu, chia nước ta thành 6 châu và đổi quận Cửu Đức thành Đức Châu. Năm 598 (Khai Hoàng năm thứ 8), nhà Tuỳ mặc dù chưa hoàn toàn chinh phục được nước Vạn Xuân nhưng vẫn tuỳ tiện đổi tên một số châu, huyện, trong đó Đức Châu được đổi thành Hoan Châu. Danh xưng Hoan Châu ra đời từ đó và tiếp tục duy trì cho đến buổi đầu của thời kỳ độc lập tự chủ dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê. Dưới thời Lý - Trần, hệ thống hành chính nước ta được thay đổi nhiều lần, kéo theo sự thay đổi của hệ thống hành chính của nhiều vùng miền trong cả nước, trong đó có cả vùng miền núi Nghệ An. Tháng 12/1010 (Thuận Thiên nguyên niên ), Lý Thái Tổ chia cả nước làm 24 lộ, đặt Châu Hoan làm trại (2). Chính quyền các châu được củng cố và do tri châu, châu bá, châu mục cai quản. Năm 1101 (Long Phù năm thứ nhất), Lý Nhân Tông cho đổi Nghệ An châu trại thành phủ Nghệ An. Nhưng đến năm 1256 (Nguyên Phong năm th ứ 6), Trần Thái Tông lại đổi phủ Nghệ An thành Trại Nghệ An. Bấy giờ, khu vực miền núi Nghệ An là miền biên viễn Tây Nam của quốc gia Đại Việt ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu Trong diễn trình lịch sử của dân tộc, danh xưng hành chính của khu vực miền núi Nghệ An nói chung, Quỳ Châu nói riêng đã trải qua nhiều lần thay đổi, nhưng không phải tất cả mọi thay đổi đều được ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng trong sử sách. Đó chính là trở ngại lớn nhất đối với công việc phục dựng lại diên cách địa lý hành chính Quỳ Châu qua hàng nghìn năm lịch sử. Hiện nay, Quỳ Châu là một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Nghệ An, nhưng trong quá khứ Quỳ Châu đã từng tồn tại với những danh xưng hành chính: CHÂU, PHỦ, HUYỆN và lệ thuộc vào các địa dư khác nhau. Việc tìm hiểu và làm sáng tỏ quá trình lịch sử hình thành và thay đổi của danh xưng Quỳ Châu không chỉ đáp ứng nguyện vọng c 1. Sự hình thành danh xưng Quỳ Châu Thông thường sự ra đời, sự thay đổi của một địa danh hành chính (bất kỳ ở cấp độ nào) cũng đều phải được quyết định bởi một cá nhân hay một cơ quan quyền lực nhà nước nhất định. Danh xưng hành chính của một địa phương bao giờ cũng nằm trong hệ thống hành chính của cả nước. Quỳ Châu là một vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời, đó là điều đã được khẳng định. Nhưng danh xưng hành chính của nó xuất hiện từ bao giờ và thay đổi ra sao thì chưa được minh chứng rõ ràng. Sử cũ chép rằng, hệ thống hành chính của nước ta thời Văn Lang - Âu Lạc gồm 15 bộ (hay bộ lạc), trong đó có bộ Hoài Hoan. Miền đất Quỳ Châu ngày nay của tỉnh Nghệ An xưa kia từng là một phần trong địa dư của bộ Hoài Hoan. Trên vùng đất ấy đã hình thành nên nh ững điểm tụ cư có quy mô khác nhau, tồn tại dưới dạng các công xã thị tộc hoặc liên minh thị tộc (bộ lạc). Mỗi điểm tụ cư như vậy có thể có một tên gọi riêng gắn liền với đặc điểm tự nhiên của nơi cư trú (núi, sông, khe suối, hang động…) hoặc nguồn gốc lịch sử dân cư. Tuy nhiên, chưa hẳn đó đã là những địa danh hành chính. Các tài liệu thư tịch cổ đều xác nhận, thuở các vua Hùng dựng nước Văn Lang, các tụ điểm dân cư thường có tên gọi là kẻ (hay cổ) ở đồng bằng; động, sách, nguồn ở miền núi; vạn ở những vùng ven sông, ven biển; đó chỉ là những vùng quê được hình thành tự nhiên chứ chưa phải là các đơn vị hành chính. Đây là một thực trạng của xã hội Hoài Hoan từ thời dựng nước cho đến trước khi bị phong kiến phương Bắc xâm lược. Từ năm 179 tr.CN đến năm 938, đất nước ta phải chịu sự đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc. Để phục cho công cuộc cai trị và bóc lột, chúng đã nhiều lần thay đổi hệ thống hành chính của nước ta. Trong buổi đầu của thời kỳ Bắc thuộc, huyện Hàm Hoan (quận Cửu Chân) tương ứng với vùng đất của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Các sách, động, nguồn ở miền rừng núi của huyện Hàm Hoan vẫn tồn tại độc lập như trước và chưa bị sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền đô hộ. Nhưng sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán đã bãi bỏ chế độ dung dưỡng, tăng cường chế độ đô hộ bằng cách đưa quan lại và binh lính người Hán sang trực tiếp cai trị nhân dân Âu Lạc; chính sách cai trị của chính quyền đô hộ ở huyện Hàm Hoan bắt đầu được xiết chặt hơn. Năm 269, quân Ngô dưới sự chỉ huy của Thái thú Đào Hoàng đã tiến đánh Cửu Chân, khi đến huyện Hàm Hoan đã gặp phải chống trả quyết liệt của nhân dân địa phương. Sử cũ chép: Bấy giờ Hàm Hoan “địa thế hiểm trở, người di lạo (1) hung tợn, đã mấy đời không chịu thần phục” . Đào Hoàng đem quân đánh phá khắp nơi, mở rộng vùng cai trị ra xa trung tâm, lập thêm nhiều huyện mới (30 huyện và “thổ dân có đến hàng nghìn người”), nhưng không ghi rõ là những huyện nào. Chỉ biết rằng sau khi Đào Hoàng chết (khoảng năm 299), nhà Đông Ngô đã tách phần Nam huyện Hàm Hoan ra, đặt thành một quận mới: quận Cửu Đức (tức vùng đất thuộc Nam Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). Năm 523, nhà Lương bỏ đơn vị hành chính cấp quận, đổi quận thành châu, chia nước ta thành 6 châu và đổi quận Cửu Đức thành Đức Châu. Năm 598 (Khai Hoàng năm thứ 8), nhà Tuỳ mặc dù chưa hoàn toàn chinh phục được nước Vạn Xuân nhưng vẫn tuỳ tiện đổi tên một số châu, huyện, trong đó Đức Châu được đổi thành Hoan Châu. Danh xưng Hoan Châu ra đời từ đó và tiếp tục duy trì cho đến buổi đầu của thời kỳ độc lập tự chủ dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê. Dưới thời Lý - Trần, hệ thống hành chính nước ta được thay đổi nhiều lần, kéo theo sự thay đổi của hệ thống hành chính của nhiều vùng miền trong cả nước, trong đó có cả vùng miền núi Nghệ An. Tháng 12/1010 (Thuận Thiên nguyên niên ), Lý Thái Tổ chia cả nước làm 24 lộ, đặt Châu Hoan làm trại (2). Chính quyền các châu được củng cố và do tri châu, châu bá, châu mục cai quản. Năm 1101 (Long Phù năm thứ nhất), Lý Nhân Tông cho đổi Nghệ An châu trại thành phủ Nghệ An. Nhưng đến năm 1256 (Nguyên Phong năm th ứ 6), Trần Thái Tông lại đổi phủ Nghệ An thành Trại Nghệ An. Bấy giờ, khu vực miền núi Nghệ An là miền biên viễn Tây Nam của quốc gia Đại Việt ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
địa danh nổi tiếng khí tượng tỉnh nghệ an lịch sử địa danh lịch sử nghệ anGợi ý tài liệu liên quan:
-
Quyết định số 71/2012/QĐ-UBND
3 trang 85 0 0 -
Quyết định số 73/2012/QĐ-UBND
8 trang 76 0 0 -
11 trang 69 0 0
-
8 trang 36 0 0
-
8 trang 34 0 0
-
Quyết định số 91/2012/QĐ.UBND
29 trang 30 0 0 -
Đề xuất quy trình nuôi cá giò vùng biển mở
5 trang 26 0 0 -
Giáo trình Mô hình hóa môi trường
219 trang 25 0 0 -
Khí tượng hải dương học - Chương 3
16 trang 24 0 0 -
151 trang 23 0 0
-
Tiểu luận đề tài: Việc làm của người có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An
132 trang 23 0 0 -
Mô hình hóa môi trường-05 hệ tác động tiến
0 trang 23 0 0 -
Tìm hiểu về nhu cầu dinh dưỡng của cá trắm đen
14 trang 23 0 0 -
0 trang 22 0 0
-
Nghị quyết số 69/2012/NQ-HĐND
8 trang 22 0 0 -
0 trang 22 0 0
-
151 trang 22 0 0
-
0 trang 22 0 0
-
Nghị quyết số 62/2012/NQ-HĐND
7 trang 22 0 0 -
Mô hình hóa môi trường - (Lê Hoàng Nghiêm ) Chương 1
24 trang 21 0 0