![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Bài viết "Tình hình sinh đẻ qua các cuộc điều tra nghiên cứu lớn" tìm hiểu thực chất tình hình sinh đẻ ở Việt Nam hiện nay và đưa ra những kiến giải nhất định với mục đích đóng góp vào việc hiểu biết sâu sắc hơn hiện trạng dân số của nước ta. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài viết để có thêm tài liệu học tập và nghiên cứu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình hình sinh đẻ qua các cuộc điều tra nghiên cứu lớn - Vũ Mạnh LợiXã hội học, số 2 - 1990Tình hình sinh đẻqua các cuộc điều tra-nghiên cứu lớnVŨ MẠNH LỢI * Ở Việt Nam thời gian gần đây vấn đề tái sản xuất dân cư ngày càng thu hút sự chú ý đặc biệt của các cơquan chuyên trách Nhà nước, chuyên gia của nhiều ngành khác nhau và đông đảo quần chúng nhân dân, các tổchức xã hội. Sách báo, ấn phẩm về dân số được lưu hành với số lượng ngày càng gia tăng. Nhiều hội nghị, hộithảo về dân số được tổ chức. Nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu được tiến hành. Tuy nhiên, do có những khó khănnhư thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ có năng lực, thiếu kinh phí và các phương tiện nghiên cứu, thiếu kinhnghiệm tổ chức và tiến hành điều tra v. v. . . nên kết quả thu được còn nhiều hạn chế, tản mạn, diện bao trùmhẹp, không cố cơ sở khái quát cao, các kết luận còn mang tính chất tư biện, cảm tình, ít sức thuyết phục. Có thể nói cuộc điều tra Dân số học và Y tế (VN DHS- 88) do Ủy ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa giađình tiến hành năm 1988 với sự trợ giúp của các chuyên gia Liên hợp quốc là một cuộc nghiên cứu lớn đầu tiênở nước ta. Cuộc điều tra nghiên cứu này được tiến hành tại 12 tỉnh, thành phố với dung lượng mẫu là 4172.Trong cuộc điều tra này, nhiều thông tin dân số học quan trọng đã được thu thập, xử lí và đã được công bố phầnnào. Bên cạnh đó, cuộc Tổng kiểm kê dân số tiến hành ngày 1- 4 -1989 cùng mang lại một khối lượng lớnnhững thông tin dân số quan trọng, với diện bao trùm lớn, đáng tin cậy để có thể dựng nên được một bức tranhtoàn cảnh về thực trạng dân số nước ta. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, ở Việt Nam, mức sinh tuy vẫn còn ở mức cao song đang có chiềuhướng giảm. Nhưng cụ thể mức sinh còn cao là bao nhiêu và đang giảm như thế nào thì các số liệu đưa ra rấtkhác nhau và được lí giải chưa thỏa đáng. Diều quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao nữa là tiềm năng táisinh sản của dân cư còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Trong bài viết ngắn này, dựa vào các số liệu của VN DHS-88 đã được công bố và so sánh với số liệu 5% đãsử lí của Tổng kiểm kê dân số năm 1989 chúng tôi chỉ có ý định tìm hiểu thực chất của tình hình sinh đẻ ở ViệtNam hiện nay và phần nào đó có thể đưa ra những kiến giải nhất đinh với mục đích đóng góp vào việc hiểu biếtsâu sắc hơn hiện trạng dân số của nước ta. Chúng tôi bắt đầu bằng việc phân tích những tỷ suất sinh chung nhấtđể có thể đưa ra một ý niệm chung về mức sinh và khuynh hướng sinh đẻ hiện nay ở nước ta. Theo đánh giá củaVN DHS - 88, năm 1988 tỷ suất sinh thô là 33‰, tỷ lệ tử thô là so và tỷ suất tăng tự nhiên là 2,5%: Như vậy, tỷsuất sinh và tăng tự nhiên này cao hơn rất nhiều so với các số liệu của Niên giám thống kê 1987 và cũng caohơn rất nhiều so với mục đích dân số của Nhà nước là 1,7%. Theo đánh giá sơ bộ dựa theo số liệu mẫu 5% Tổng kiểm kê dân số 1989, tỷ suất sinh thô là khoảng 31-32‰, thấp hơn đôi chút so với con số kể trên, tỷ suất tử thô là khoảng 8- 9‰, không khác với đánh giá của VNDHS-88. Tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 2, 2 đến 2, 4%, cao hơn rất nhiều so với mục đích dân số của Nhà nước Bảng 1 cho ta một ý niệm về khuynh hướng sinh đẻ trong khoảng mười năm gần đây. Tuy rằng phươngpháp đánh giá gián tiếp của VN DHS chỉ cho phép đánh giá tổng tỷ suất sinh của phụ nữ cho đến 39 tuổi, nhữngcon gỡ này -dù lúc lên lúc xuống- rô ràng cho thấy khuynh hướng chung là số sinh đang giảm xuống. Diều nàycũng phù hợp với kết luận khi so sánh tổng tỷ suất sinh với số con trung bình mà một phụ nữ đã từng sinh mà tasẽ nói đến ở phần sau . * . Cán bộ nghiên cứu Phòng lý luận và lịch sử Xã hội học, Viện Xã hội học. Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn2 Xã hội học, số 2 - 1990Bảng 1: Khuynh hướng sinh đẻ: Năm TFR (15-39) Nguồn 1980 4,27 VN DHS-88 1981 4,24 VN DHS-88 1982 4,69 VN DHS-88 1983 4,43 VN DHS-88 1984 4,28 VN DHS-88 1985 4,01 VN DHS-88 1986 3,37 VN DHS-88 1987 3,67 VN DHS-88 1983- 1987 4, 16 VN DHS-88 1989 3,96 TKKDS-89 Tổng tỷ suất sinh tính đầy đủ cho phụ nữ trong độ tuổi 15-49 là 0, 4 cho năm 1987 theo VN DHS-88 và là 3,96 cho năm 1989 theo mẫu 5% của Tổng kiể ...