Trần Bích San: nhớ lời cha răn
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 123.00 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khi Trần Bích San (1840 - 1877) đỗ đầu liền ba kỳ thi, cha ông không vui mà tỏ ý lo lắng con sớm đỗ cao mà sinh ra kiêu ngạo. Có thể nói, những thành công trên con đường học hành và làm quan của Tam nguyên Trần Bích San đều có dấu ấn của cha ông, một nhà giáo uy tín và đức độ. Ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự là Cổ Mai trang, nơi sinh thành vị Tam nguyên Trần Bích San (1840 - 1877), niềm tự hào của vùng Vị Xuyên, ba kỳ thi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trần Bích San: nhớ lời cha răn Trần Bích San: nhớ lời cha răn Khi Trần Bích San (1840 - 1877) đỗ đầu liền ba kỳ thi, cha ông khôngvui mà tỏ ý lo lắng con sớm đỗ cao mà sinh ra kiêu ngạo. Có thể nói, nhữngthành công trên con đường học hành và làm quan của Tam nguyên TrầnBích San đều có dấu ấn của cha ông, một nhà giáo uy tín và đức độ. Ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự là Cổ Mai trang, nơi sinh thành vị Tamnguyên Trần Bích San (1840 - 1877), niềm tự hào của vùng Vị Xuyên, ba kỳthi liền đều đỗ đầu bảng. Tên hiệu của ông là Mai Nham, tên tự là VọngNghi. Khi đỗ Tam nguyên, vua Tự Đức đổi tên cho ông là Hy Tăng, với hyvọng ông giống như Tể tướng Vương Tăng đời Tống bên Trung Quốc, cũngđỗ Tam nguyên. Từ nhỏ, Trần Bích San nổi tiếng là người thông minh, nhanh nhẹn, cótư duy độc lập. Khi học Tam tự kinh, để thử trí đối đáp của con, ông TrầnDoãn Đạt ra một vế đối ngắn. Người đọc: Thiên thượng. Nghĩa là: Trời ởtrên. Tưởng con sẽ đối: Địa hạ. Nghĩa là: Đất ở dưới. Nhưng Trần Bích Sanlại ứng khẩu: Nhân trung. Nghĩa là: Người ở giữa. Về đối rất chỉnh và hay.Cậu nói: Nếu đối là: Địa hạ thì thường quá, trò nào cũng đối được. Để răndạy con có đức tính tự trọng và có ý chí từ nhỏ, cha ông, một nhà giáo có uytín và đức độ, đã uốn nắn Trần Bích San từng nét chữ, từng bước đi. Tại lớphọc của ông có dán câu đối lớn: Trí thân trực dục cao thiên nhận; Xử thế tu đương hạ nhất tằng. (Lập thân những muốn cao nghìn trượng; Xử thế mình nên hạ một tầng.) Đấy là phương châm tu thân, xử thế cho mình và cả cho con của ông.Trần Bích San có nhiều may mắn là được người cha trực tiếp dạy dỗ. Trongthời gian ông theo học lại đúng lúc đất nước bị thực dân Pháp xâm lăng.Triều đình nhà Nguyễn buộc phải nhượng một nửa Nam Kỳ cho Pháp. TrầnBích San hiểu thấu lời dạy của cha: Yêu nước không chỉ có dũng, mà cầncó mưu trí và sự hiểu biết uyên thâm. Từ đó, Trần Bích San kiên trì dùi màikinh sử, và Trần Bích San đã đỗ luôn cả Hội nguyên và Đình nguyên, đượcban tuyển vinh quy Liên trúng Tam nguyên. Thành tựu khoa cử của TrầnBích San làm nức lòng mọi người. Tin Trần Bích San mới hai mươi sáu tuổi Liên trúng Tam nguyên, bàcon láng giềng, thân thích kéo tới chúc mừng cụ Trần Doãn Đạt, nhưng vẻmặt của cụ lại rầu rầu, không vui, như có điều gì lo lắng. Mãi sau, mọi ngườimới rõ: Cụ sợ con đỗ cao nảy sinh kiêu ngạo, liền gửi thư cho con, trong đócó hai câu răn: Có kiến thức không khó, khó là phải hiểu biết đến nơi, Không danh vọng không đáng lo, chỉ lo tiếng tăm phù phiếm. Nhớ lời răn dạy đó, suốt những năm làm quan, Trần Bích San lúc nàocũng trau dồi kiến thức, sát dân, không háo danh, luôn luôn làm tròn bổnphận của người làm quan. Ông không ngần ngại vạch trần tình trạng tệ hạitrong quan trường, mạnh dạn kiến nghị với triều đình coi trọng việc lấylòng thành đối với dân chúng làm căn bản, kiểm tra kỹ lưỡng hàng ngũquan lại, biểu dương khuyến khích người tốt, bãi bỏ kẻ thiếu đức hạnh. Lậphệ thống Thái phỏng sứ (như thanh tra) để giữ vững kỷ cương trong hàngngũ quan lại. Để có được nhiều hiền tài, ông kiến nghị ba giải pháp căn bản:Thứ nhất, coi trọng giáo chức, chọn lựa những người tài đức song toàn, cấplương bổng thỏa đáng để họ khỏi có tâm lý bỏ nghề. Thứ hai, tuyển chọnngười tài không nên chỉ đơn thuần dựa vào kết quả thi cử văn từ suông, màphải kết hợp với việc thường xuyên tiến cử từ cơ sở lên theo tiêu chuẩn vàcách thức thống nhất. Thứ nữa, định ra phép thuyên tuyển (giống như côngtác tổ chức cán bộ hiện nay) và cử những người thật có phẩm cách và côngtâm đảm nhiệm. Những ý kiến của Tam nguyên Trần Bích San được vua TựĐức chấp thuận giao cho đình thần nghiên cứu, tham khảo thực hiện. Khilàm tri phủ ở Thăng Bình, Điện Bàn, Quảng Nam, ông thẳng tay bắt giữ haitên cố đạo Tây vi phạm luật lệ của triều đình. Súy phủ Pháp ở Nam Kỳ canthiệp bắt vạ ông, Tự Đức buộc phải giáng ông hai cấp. M ùa thu năm 1877,ông được triệu về Huế thăng làm Tham tri bộ Lễ và dẫn đầu sứ bộ sangPháp. Chuẩn bị lên đường thì đêm 8-11 (tức ngày 27-9 âm lịch), Trần BíchSan đột ngột từ trần. Vua Tự Đức chỉ thị việc tang lễ, còn làm thơ viếng, làmvăn tế ông. Trong đó có câu: Danh tiếng Tam nguyên chỉ còn lưu trên giấy tàn, Mưa gió một đêm rụng bông mai sớm. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trần Bích San: nhớ lời cha răn Trần Bích San: nhớ lời cha răn Khi Trần Bích San (1840 - 1877) đỗ đầu liền ba kỳ thi, cha ông khôngvui mà tỏ ý lo lắng con sớm đỗ cao mà sinh ra kiêu ngạo. Có thể nói, nhữngthành công trên con đường học hành và làm quan của Tam nguyên TrầnBích San đều có dấu ấn của cha ông, một nhà giáo uy tín và đức độ. Ngôi nhà số 7, phố Bến Ngự là Cổ Mai trang, nơi sinh thành vị Tamnguyên Trần Bích San (1840 - 1877), niềm tự hào của vùng Vị Xuyên, ba kỳthi liền đều đỗ đầu bảng. Tên hiệu của ông là Mai Nham, tên tự là VọngNghi. Khi đỗ Tam nguyên, vua Tự Đức đổi tên cho ông là Hy Tăng, với hyvọng ông giống như Tể tướng Vương Tăng đời Tống bên Trung Quốc, cũngđỗ Tam nguyên. Từ nhỏ, Trần Bích San nổi tiếng là người thông minh, nhanh nhẹn, cótư duy độc lập. Khi học Tam tự kinh, để thử trí đối đáp của con, ông TrầnDoãn Đạt ra một vế đối ngắn. Người đọc: Thiên thượng. Nghĩa là: Trời ởtrên. Tưởng con sẽ đối: Địa hạ. Nghĩa là: Đất ở dưới. Nhưng Trần Bích Sanlại ứng khẩu: Nhân trung. Nghĩa là: Người ở giữa. Về đối rất chỉnh và hay.Cậu nói: Nếu đối là: Địa hạ thì thường quá, trò nào cũng đối được. Để răndạy con có đức tính tự trọng và có ý chí từ nhỏ, cha ông, một nhà giáo có uytín và đức độ, đã uốn nắn Trần Bích San từng nét chữ, từng bước đi. Tại lớphọc của ông có dán câu đối lớn: Trí thân trực dục cao thiên nhận; Xử thế tu đương hạ nhất tằng. (Lập thân những muốn cao nghìn trượng; Xử thế mình nên hạ một tầng.) Đấy là phương châm tu thân, xử thế cho mình và cả cho con của ông.Trần Bích San có nhiều may mắn là được người cha trực tiếp dạy dỗ. Trongthời gian ông theo học lại đúng lúc đất nước bị thực dân Pháp xâm lăng.Triều đình nhà Nguyễn buộc phải nhượng một nửa Nam Kỳ cho Pháp. TrầnBích San hiểu thấu lời dạy của cha: Yêu nước không chỉ có dũng, mà cầncó mưu trí và sự hiểu biết uyên thâm. Từ đó, Trần Bích San kiên trì dùi màikinh sử, và Trần Bích San đã đỗ luôn cả Hội nguyên và Đình nguyên, đượcban tuyển vinh quy Liên trúng Tam nguyên. Thành tựu khoa cử của TrầnBích San làm nức lòng mọi người. Tin Trần Bích San mới hai mươi sáu tuổi Liên trúng Tam nguyên, bàcon láng giềng, thân thích kéo tới chúc mừng cụ Trần Doãn Đạt, nhưng vẻmặt của cụ lại rầu rầu, không vui, như có điều gì lo lắng. Mãi sau, mọi ngườimới rõ: Cụ sợ con đỗ cao nảy sinh kiêu ngạo, liền gửi thư cho con, trong đócó hai câu răn: Có kiến thức không khó, khó là phải hiểu biết đến nơi, Không danh vọng không đáng lo, chỉ lo tiếng tăm phù phiếm. Nhớ lời răn dạy đó, suốt những năm làm quan, Trần Bích San lúc nàocũng trau dồi kiến thức, sát dân, không háo danh, luôn luôn làm tròn bổnphận của người làm quan. Ông không ngần ngại vạch trần tình trạng tệ hạitrong quan trường, mạnh dạn kiến nghị với triều đình coi trọng việc lấylòng thành đối với dân chúng làm căn bản, kiểm tra kỹ lưỡng hàng ngũquan lại, biểu dương khuyến khích người tốt, bãi bỏ kẻ thiếu đức hạnh. Lậphệ thống Thái phỏng sứ (như thanh tra) để giữ vững kỷ cương trong hàngngũ quan lại. Để có được nhiều hiền tài, ông kiến nghị ba giải pháp căn bản:Thứ nhất, coi trọng giáo chức, chọn lựa những người tài đức song toàn, cấplương bổng thỏa đáng để họ khỏi có tâm lý bỏ nghề. Thứ hai, tuyển chọnngười tài không nên chỉ đơn thuần dựa vào kết quả thi cử văn từ suông, màphải kết hợp với việc thường xuyên tiến cử từ cơ sở lên theo tiêu chuẩn vàcách thức thống nhất. Thứ nữa, định ra phép thuyên tuyển (giống như côngtác tổ chức cán bộ hiện nay) và cử những người thật có phẩm cách và côngtâm đảm nhiệm. Những ý kiến của Tam nguyên Trần Bích San được vua TựĐức chấp thuận giao cho đình thần nghiên cứu, tham khảo thực hiện. Khilàm tri phủ ở Thăng Bình, Điện Bàn, Quảng Nam, ông thẳng tay bắt giữ haitên cố đạo Tây vi phạm luật lệ của triều đình. Súy phủ Pháp ở Nam Kỳ canthiệp bắt vạ ông, Tự Đức buộc phải giáng ông hai cấp. M ùa thu năm 1877,ông được triệu về Huế thăng làm Tham tri bộ Lễ và dẫn đầu sứ bộ sangPháp. Chuẩn bị lên đường thì đêm 8-11 (tức ngày 27-9 âm lịch), Trần BíchSan đột ngột từ trần. Vua Tự Đức chỉ thị việc tang lễ, còn làm thơ viếng, làmvăn tế ông. Trong đó có câu: Danh tiếng Tam nguyên chỉ còn lưu trên giấy tàn, Mưa gió một đêm rụng bông mai sớm. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
danh nhân việt nam nhân vật lịch sử lịch sử việt nam tài liệu danh nhân tiểu sử danh nhân việtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
69 trang 80 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
11 trang 51 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 49 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 46 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0 -
183 trang 40 0 0