TRẦN THÁI TÔNG ( 1218 - 1277 ) 3
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 127.38 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
TRẦN THÁI TÔNG ( 1218 - 1277 ) 35. Nói rộng về một con đường tiến lên ("Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ"): - Nguyên văn: xem "Thơ Văn Lý Trần", ibid., tr.73-75. - Bài "Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ" bao gồm nhiều phần, nhiều ý mà Thái Tông muốn truyền đạt, đánh thức, hộ trì hành giả, vì thế hành giả cần đọc kỷ nhiều lần để khắc ghi sâu vào tâm ý. - Những vùng phát triển tâm thức để "ngộ" và "đạt" - hay chứng ngộ và chứng đạt - mà hành giả phải đặt chân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TRẦN THÁI TÔNG ( 1218 - 1277 ) 3 TRẦN THÁI TÔNG ( 1218 - 1277 ) 35. Nói rộng về một con đường tiến lên (Phổ Thuyết Hướng Thượng NhấtLộ):- Nguyên văn: xem Thơ Văn Lý Trần, ibid., tr.73-75.- Bài Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ bao gồm nhiều phần, nhiều ý mà TháiTông muốn truyền đạt, đánh thức, hộ trì hành giả, vì thế hành giả cần đọc kỷ nhiềulần để khắc ghi sâu vào tâm ý.- Những vùng phát triển tâm thức để ngộ và đạt - hay chứng ngộ và chứng đạt- mà hành giả phải đặt chân đến sau thời gian hành giác tỉnh để nuôi dưỡng Tuệnhư là:a/ Vấn đề hướng thượng, đi sâu vào tâm thức, không phải bằng tham cứu ngữnghĩa, bằng ngôn ngữ, diễn đạt dù bằng các hình thức ngoài ngôn ngữ, bởi vì cáccấp độ tâm thức và thực tại nầy ở ngoài sự ghi nhận của sáu căn, sáu trần và sáuthức, điều mà Thái Tông bảo là: đầu đặt thêm đầu, đuôi nối thêm đuôi; trong mắt thêm bụi, trên thịt thêm bướu.Ðó là các công phu mà tự hành giả cần thức tỉnh sâu hơn, quán sát tâm thức mìnhđể cắt lìa các tập quán, tập khí cũ như :- Thân kiến ( thấy có tự ngã; thấy 5 uẩn là tự ngã )- Nghi ( nghi ngờ, không rõ pháp hành đang hành đi tới )- Giới cấm thủ ( khép mình vào các giới cấm sai lạc )- Dục ( còn vương tập khí ham muốn thế gian )- Sân ( còn vương tập khí vội vàng, nóng nảy, không bằng lòng các sự việc xảyđến)- Hữu ái ( còn tâm ưa các cảnh giới tâm thức tế nhị, đẹp đẽ, trong sáng của cõiSắc, cảnh Thiền)|- Vô hữu ái ( tâm dù không dính mắc cõi Hữu, cõi Sắc, nhưng vẫn mong muốn rờixa cõi Sắc, và ưa muốn ở ngoài hiện hữu của cõi Sắc )- Mạn ( còn thấy niềm tự hãnh về tự ngã, dù rất tế, như thấy có tự ngã chứng đắc,và đối tượng tự ngã chứng đắc )- Trạo cử ( còn lòng nóng vội, bồn chồn muốn đi thẳng ngay vào Trí giác, chạyvạy để thể nhập Trí giác... )- Vô minh ( hành giả đang bị vướng mắc vào các tập khí trên mà tự mình khôngbiết)b/ Ðể vượt qua các tập khí trên khi đang bị vướng mắc, nếu không có các bậcThánh, các đại thiền sư ( đã chứng đắc ) ở bên cạnh soi thấy và vận dụng phươngtiện đánh thức, khai ngộ, thì hành giả khó vượt. Ðây là điểm mà Thái Tông bảo: Một con đường hướng lên nghìn Thánh nếu không truyền, thì kẻ theo học mệtxác như loài vượn bắt bóng.c/ Nơi đặt chân đến rốt cùng gọi là đáo bỉ ngạn là lúc mà tâm, tuệ của hành giảhoàn toàn thanh tịnh, sạch hết chấp thủ, dứt bặt tham ái, là lúc mà Thái Tông bảo: Hoàng hoa uất uất vô phi bát-nhã chi tâm, thúy trúc thanh thanh, tận thị chân nhưchi lý.( Rỡ rỡ hoa vàng, hết thảy là tâm bát-nhã; xanh xanh trúc biếc cũng đều là lýchân như)Ðây là điểm mà Kinh Kim Cương Bát Nhã gọi là : Nhất thiết pháp giai thị Phậtpháp (Hết thảy hiện hữu đều là Phật pháp, đều là pháp của Phật, đều thuộc cảnhgiới của Phật), và Kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhất thiết pháp vô phi Phật pháp(Hết thảy hiện hữu đều không ngoài pháp của Phật, của cảnh giới Phật). Ðiều nàycó nghĩa nếu tâm hành giả sạch hết chấp thủ, sạch hết tham ái thì thế gian là cảnhPhật, là chân như, là thật cảnh như Ðức Thế Tôn Gotama đã dạy: Khi Ta thanhtịnh, Ta thấy thế giới thanh tịnh. - Nikàya -. Bấy giờ hành giả sẽ hành xử nhưThái Tông viết:...Phóng chi tắc bát tự đả khai; bả chi tắc nhất môn tuyệt há.Quỷ quật lý tại dã thịDi Lặc lâu đài; Hắc sơn hạ cư bất dị Phổ Hiền cảnh giới. Xứ xứ đại quang minhtạng; cơ cơ bất nhị pháp môn. Trực nhiên ám khứ minh lai; quản thậm vân giànguyệt tế. Minh châu tại chưởng, thanh ánh thanh, hoàng ánh hoàng; cổ kínhtương đài Hồ hiện Hồ, Hán hiện Hán. Khởi quan huyễn thể, tận thị pháp thân. Bấtlao đính thượng phóng quang; bản cụ lục thông thần dụng. Dược đảo ma vươngcung điện; tịch khai ngoại đạo tâm can. Biến đại địa tác quốc giới ho àng kim, lãmtrường hà vi nhân thiên tô lạc. Tị khổng lý pháp luân thường chuyển; mi mao hạbảo sát hiện tiền, Ba gian thạch nữ vũ bà sa; xuy địch mộc nhân ca khoãn đãi...( Buông ra thì tám chữ mở tung; nắm lại thì một cửa khép kín. Hang quỷ ở là lâuđài Di Lặc; núi Hắc Sơn đâu khác cảnh Phổ Hiền. Chốn chốn là tạng đại quangminh; cơ cơ là pháp môn bất nhị. Mặc sức mờ đi tỏ lại; ngại chi trăng phủ mâyche. Hạt trai sáng ở tay, xanh ánh xanh, vàng ánh vàng; gương cổ đặt trên đài, Hồhiện Hồ, Hán hiện Hán; Can chi huyễn thể; thảy đều pháp thân. Chẳng nhọc tr ênđầu tỏa sáng; vốn xưa đủ sáu thần thông. Ðạp đổ cung điện ma vương; mở toangtâm can ngoại đạo. Biến đất lớn thành quốc gia vàng quý; kéo sông dài làm sữangọt cho người. Trong lỗ mũi thường chuyển pháp xa; dưới lông mày hiện ra thápbáu. Cô gái đá múa thướt tha giữa sóng; chàng trai gỗ?hổi khúc tiêu đón đưa...)Với thấy biết trên, với trí tuệ trên, Thái Tông đã ngầm nói với kẻ hậu lai rằng: khổ,sầu không phải đến từ thân ngũ uẩn, từ cuộc thế vô thường, mà đến từ tâm chấpmê của hành giả; hạnh phúc, an lạc, giải thoát không phải ở cõi nước Dược Sư, DiÐà, hay bên kia thế giới, mà ở ngay tại tâm ta, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TRẦN THÁI TÔNG ( 1218 - 1277 ) 3 TRẦN THÁI TÔNG ( 1218 - 1277 ) 35. Nói rộng về một con đường tiến lên (Phổ Thuyết Hướng Thượng NhấtLộ):- Nguyên văn: xem Thơ Văn Lý Trần, ibid., tr.73-75.- Bài Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ bao gồm nhiều phần, nhiều ý mà TháiTông muốn truyền đạt, đánh thức, hộ trì hành giả, vì thế hành giả cần đọc kỷ nhiềulần để khắc ghi sâu vào tâm ý.- Những vùng phát triển tâm thức để ngộ và đạt - hay chứng ngộ và chứng đạt- mà hành giả phải đặt chân đến sau thời gian hành giác tỉnh để nuôi dưỡng Tuệnhư là:a/ Vấn đề hướng thượng, đi sâu vào tâm thức, không phải bằng tham cứu ngữnghĩa, bằng ngôn ngữ, diễn đạt dù bằng các hình thức ngoài ngôn ngữ, bởi vì cáccấp độ tâm thức và thực tại nầy ở ngoài sự ghi nhận của sáu căn, sáu trần và sáuthức, điều mà Thái Tông bảo là: đầu đặt thêm đầu, đuôi nối thêm đuôi; trong mắt thêm bụi, trên thịt thêm bướu.Ðó là các công phu mà tự hành giả cần thức tỉnh sâu hơn, quán sát tâm thức mìnhđể cắt lìa các tập quán, tập khí cũ như :- Thân kiến ( thấy có tự ngã; thấy 5 uẩn là tự ngã )- Nghi ( nghi ngờ, không rõ pháp hành đang hành đi tới )- Giới cấm thủ ( khép mình vào các giới cấm sai lạc )- Dục ( còn vương tập khí ham muốn thế gian )- Sân ( còn vương tập khí vội vàng, nóng nảy, không bằng lòng các sự việc xảyđến)- Hữu ái ( còn tâm ưa các cảnh giới tâm thức tế nhị, đẹp đẽ, trong sáng của cõiSắc, cảnh Thiền)|- Vô hữu ái ( tâm dù không dính mắc cõi Hữu, cõi Sắc, nhưng vẫn mong muốn rờixa cõi Sắc, và ưa muốn ở ngoài hiện hữu của cõi Sắc )- Mạn ( còn thấy niềm tự hãnh về tự ngã, dù rất tế, như thấy có tự ngã chứng đắc,và đối tượng tự ngã chứng đắc )- Trạo cử ( còn lòng nóng vội, bồn chồn muốn đi thẳng ngay vào Trí giác, chạyvạy để thể nhập Trí giác... )- Vô minh ( hành giả đang bị vướng mắc vào các tập khí trên mà tự mình khôngbiết)b/ Ðể vượt qua các tập khí trên khi đang bị vướng mắc, nếu không có các bậcThánh, các đại thiền sư ( đã chứng đắc ) ở bên cạnh soi thấy và vận dụng phươngtiện đánh thức, khai ngộ, thì hành giả khó vượt. Ðây là điểm mà Thái Tông bảo: Một con đường hướng lên nghìn Thánh nếu không truyền, thì kẻ theo học mệtxác như loài vượn bắt bóng.c/ Nơi đặt chân đến rốt cùng gọi là đáo bỉ ngạn là lúc mà tâm, tuệ của hành giảhoàn toàn thanh tịnh, sạch hết chấp thủ, dứt bặt tham ái, là lúc mà Thái Tông bảo: Hoàng hoa uất uất vô phi bát-nhã chi tâm, thúy trúc thanh thanh, tận thị chân nhưchi lý.( Rỡ rỡ hoa vàng, hết thảy là tâm bát-nhã; xanh xanh trúc biếc cũng đều là lýchân như)Ðây là điểm mà Kinh Kim Cương Bát Nhã gọi là : Nhất thiết pháp giai thị Phậtpháp (Hết thảy hiện hữu đều là Phật pháp, đều là pháp của Phật, đều thuộc cảnhgiới của Phật), và Kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhất thiết pháp vô phi Phật pháp(Hết thảy hiện hữu đều không ngoài pháp của Phật, của cảnh giới Phật). Ðiều nàycó nghĩa nếu tâm hành giả sạch hết chấp thủ, sạch hết tham ái thì thế gian là cảnhPhật, là chân như, là thật cảnh như Ðức Thế Tôn Gotama đã dạy: Khi Ta thanhtịnh, Ta thấy thế giới thanh tịnh. - Nikàya -. Bấy giờ hành giả sẽ hành xử nhưThái Tông viết:...Phóng chi tắc bát tự đả khai; bả chi tắc nhất môn tuyệt há.Quỷ quật lý tại dã thịDi Lặc lâu đài; Hắc sơn hạ cư bất dị Phổ Hiền cảnh giới. Xứ xứ đại quang minhtạng; cơ cơ bất nhị pháp môn. Trực nhiên ám khứ minh lai; quản thậm vân giànguyệt tế. Minh châu tại chưởng, thanh ánh thanh, hoàng ánh hoàng; cổ kínhtương đài Hồ hiện Hồ, Hán hiện Hán. Khởi quan huyễn thể, tận thị pháp thân. Bấtlao đính thượng phóng quang; bản cụ lục thông thần dụng. Dược đảo ma vươngcung điện; tịch khai ngoại đạo tâm can. Biến đại địa tác quốc giới ho àng kim, lãmtrường hà vi nhân thiên tô lạc. Tị khổng lý pháp luân thường chuyển; mi mao hạbảo sát hiện tiền, Ba gian thạch nữ vũ bà sa; xuy địch mộc nhân ca khoãn đãi...( Buông ra thì tám chữ mở tung; nắm lại thì một cửa khép kín. Hang quỷ ở là lâuđài Di Lặc; núi Hắc Sơn đâu khác cảnh Phổ Hiền. Chốn chốn là tạng đại quangminh; cơ cơ là pháp môn bất nhị. Mặc sức mờ đi tỏ lại; ngại chi trăng phủ mâyche. Hạt trai sáng ở tay, xanh ánh xanh, vàng ánh vàng; gương cổ đặt trên đài, Hồhiện Hồ, Hán hiện Hán; Can chi huyễn thể; thảy đều pháp thân. Chẳng nhọc tr ênđầu tỏa sáng; vốn xưa đủ sáu thần thông. Ðạp đổ cung điện ma vương; mở toangtâm can ngoại đạo. Biến đất lớn thành quốc gia vàng quý; kéo sông dài làm sữangọt cho người. Trong lỗ mũi thường chuyển pháp xa; dưới lông mày hiện ra thápbáu. Cô gái đá múa thướt tha giữa sóng; chàng trai gỗ?hổi khúc tiêu đón đưa...)Với thấy biết trên, với trí tuệ trên, Thái Tông đã ngầm nói với kẻ hậu lai rằng: khổ,sầu không phải đến từ thân ngũ uẩn, từ cuộc thế vô thường, mà đến từ tâm chấpmê của hành giả; hạnh phúc, an lạc, giải thoát không phải ở cõi nước Dược Sư, DiÐà, hay bên kia thế giới, mà ở ngay tại tâm ta, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
vua trần thai tông chuyện kể các đời vua lịch sử việt nam lịch sử phong kiến việt nam công việc của các vị vuaGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 145 0 0 -
69 trang 73 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 57 0 0 -
11 trang 48 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 45 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 44 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0 -
183 trang 40 0 0