Trần Thái Tông mở nghiệp nhà TrầnTrần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 117.67 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trần Thái Tông mở nghiệp nhà TrầnTrần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ nhất của nhà Trần, sinh ngày 17-71218, mất ngày 4-5-1277, làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59 tuổi. Trần Cảnh là con thứ Trần Thừa, một người nhiều mưu lược, dưới triều Lý từng giữ chức Nội thị khán thủ (đứng đầu các quan hầu cận vua Lý trong cung). Nhờ có Trần Thủ Độ là chú họ khi ấy làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh thường xuyên được ra vào cung, sau lấy Lý Chiêu Hoàng. Năm 1226, Lý Chiêu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trần Thái Tông mở nghiệp nhà TrầnTrần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ Trần Thái Tông mở nghiệp nhà Trần Trần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ nhất của nhà Trần, sinh ngày 17-7-1218, mất ngày 4-5-1277, làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59 tuổi. Trần Cảnh là con thứ Trần Thừa, một người nhiều mưu lược, dưới triều Lý từnggiữ chức Nội thị khán thủ (đứng đầu các quan hầu cận vua Lý trong cung). Nhờ cóTrần Thủ Độ là chú họ khi ấy làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh thường xuyênđược ra vào cung, sau lấy Lý Chiêu Hoàng. Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhườngngôi cho Trần Cảnh và vương triều Trần được thành lập từ đấy. Lên làm vua, Trần Cảnh đổi niên hiệu là Kiến Trung; năm 1232, đổi là Thiênứng Chính bình; năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong và niên hiệu Nguyên Phongđã đi vào lịch sử như cái mốc lớn ghi chiến công đầu tiên trong cuộc kháng chiếnchống Nguyên Mông hồi thế kỷ 13 mà thơ Trần Nhân Tông ca ngợi: Bạch đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. (Lính bạc đầu còn đó, Kể mãi chuyện Nguyên Phong). Ngày 17-1-1258, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) quân Nguyên tràn tới cánhđồng Bình Lệ (phía nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ), Trần Thái Tông chỉ huycuộc chiến đấu chống giặc. Theo Đại Việt sử ký to àn thư tả: Vua tự làm tướngđốc chiến đi trước, xông pha tên đạn... Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (sau là vua Trần ThánhTông) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúcthắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông đãtrở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng tên tuổi Trần Thái Tông được sử sách lưu truyền còn vì ông là một nhàThiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, độc đáo và một tính cách khálạ lùng, tác giả sách Khóa hư lục, một tác phẩm cổ nhất, quan trọng nhất vềphương diện triết học Thiền của thời Trần. Khóa hư lục nghĩa là ghi chép về phép tu dưỡng đạo hư tịch. Trần Thái Tôngviết sách này vào quãng từ năm 1258 đến trước lúc mất (1277), tức là sau khi ôngđã nhường ngôi cho Lê Thánh Tông rồi vào núi tu hành. Xét về niên đại, Khóa hưlục là cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ Việt Nam. Xétvề nội dung, Khóa hư lục vừa có giá trị triết học, vừa có giá trị văn học, bởi TrầnThái Tông mượn để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc của mình là hình thức văn, luận,thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn... Tất cả đều giàu hình tượng,giàu chất trữ tình. Trong một văn bản Khóa hư lục có bài Tựa Thiền tông chỉ nam của Trần TháiTông viết, ông đã kể lại sự việc năm 1236 đang đêm ông bỏ cung điện vào núi,định ở đó tu hành, nhưng Trần Thủ Độ đến nơi, cương quyết mời ông trở lại ngôivua, và câu chuyện này gắn liền với tiểu sử đời ông, với đặc điểm của Phật giáoViệt Nam thời Trần: Năm thứ 5, niên hiệu Thiên ứng Chính bình, đúng đêmmồng ba tháng tư năm Bính Thân (1236), nhân vi hành ra c ửa cung, bảo người tảhữu rằng: Trẫm muốn ra chơi để ngầm nghe lời dân, xem ý dân tình như thế nào...Giờ hợi đêm ấy, một ngựa lẻn ra, qua sông mà đi về phía Đông... Giờ mão ngàyhôm sau thì đến bến đò Phả Lại sông Đại Than, sợ người ta biết, lấy vạt áo chemặt qua sông... Gập ghềnh, núi thẳm khe sâu, ngựa mỏi không tiến đ ược, trẫm bỏngựa leo dốc mà đi, giờ mùi tới đầu núi Yên Tử. Sớm mai lên thẳng đỉnh núi,thăm quốc sư Trúc Lâm đạo sa môn... Bấy giờ Thúc phụ Trần Công (tức ThủĐộ)... nghe tin trẫm bỏ đi, sai tả, hữu tìm kiếm khắp nơi, bèn cùng với các vị quốclão tìm đến núi này. Gặp trẫm, Thái sư nói thống thiết rằng: Bệ hạ vì mục đích tucho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Ví để lờinói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo chothiên hạ?... Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi.... Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo n ước nào lại nêu vấn đề quốc gia xã tắc ravà giải quyết theo hướng đặt quốc gia xã tắc lên trên hết, trước hết như thế. ởViệt Nam, quốc gia xã tắc bao giờ cũng là vấn đề trọng đại nhất. Thái độ đối vớiquốc gia xã tắc chính là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vịnào. Nghe theo tiếng gọi của quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông trở về triều và 22năm sau, Trần Thái Tông đã phá tan quân xâm lược Nguyên Mông, giữ vữngquốc gia xã tắc. Trần Thái Tông quả là người có một tính cách đặc biệt. Lúc làm tướng, đánhgiặc thì anh dũng xông vào mũi tên hòn đạn, khi làm vua, thì phú quý không đủlàm trọng, có thể sẵn sàng từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ngô Thì Sĩ, sử gia thế kỷ 18 đã nhận xét về Trần Thái Tông: Trần Thái Tôngtuy ý từ gần với đạo không tịch mà chí thì rộng xa, cao siêu cho nên bỏ ngôi báunhư trút đôi dép rách vậy. Lời nhận xét này tưởng như một nét khắc thần thái Trần Thái Tông, bó đuốc củaThiền học Việt Nam, gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sửViệt Nam ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trần Thái Tông mở nghiệp nhà TrầnTrần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ Trần Thái Tông mở nghiệp nhà Trần Trần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ nhất của nhà Trần, sinh ngày 17-7-1218, mất ngày 4-5-1277, làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59 tuổi. Trần Cảnh là con thứ Trần Thừa, một người nhiều mưu lược, dưới triều Lý từnggiữ chức Nội thị khán thủ (đứng đầu các quan hầu cận vua Lý trong cung). Nhờ cóTrần Thủ Độ là chú họ khi ấy làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh thường xuyênđược ra vào cung, sau lấy Lý Chiêu Hoàng. Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhườngngôi cho Trần Cảnh và vương triều Trần được thành lập từ đấy. Lên làm vua, Trần Cảnh đổi niên hiệu là Kiến Trung; năm 1232, đổi là Thiênứng Chính bình; năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong và niên hiệu Nguyên Phongđã đi vào lịch sử như cái mốc lớn ghi chiến công đầu tiên trong cuộc kháng chiếnchống Nguyên Mông hồi thế kỷ 13 mà thơ Trần Nhân Tông ca ngợi: Bạch đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. (Lính bạc đầu còn đó, Kể mãi chuyện Nguyên Phong). Ngày 17-1-1258, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) quân Nguyên tràn tới cánhđồng Bình Lệ (phía nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ), Trần Thái Tông chỉ huycuộc chiến đấu chống giặc. Theo Đại Việt sử ký to àn thư tả: Vua tự làm tướngđốc chiến đi trước, xông pha tên đạn... Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (sau là vua Trần ThánhTông) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúcthắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông đãtrở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng tên tuổi Trần Thái Tông được sử sách lưu truyền còn vì ông là một nhàThiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, độc đáo và một tính cách khálạ lùng, tác giả sách Khóa hư lục, một tác phẩm cổ nhất, quan trọng nhất vềphương diện triết học Thiền của thời Trần. Khóa hư lục nghĩa là ghi chép về phép tu dưỡng đạo hư tịch. Trần Thái Tôngviết sách này vào quãng từ năm 1258 đến trước lúc mất (1277), tức là sau khi ôngđã nhường ngôi cho Lê Thánh Tông rồi vào núi tu hành. Xét về niên đại, Khóa hưlục là cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ Việt Nam. Xétvề nội dung, Khóa hư lục vừa có giá trị triết học, vừa có giá trị văn học, bởi TrầnThái Tông mượn để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc của mình là hình thức văn, luận,thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn... Tất cả đều giàu hình tượng,giàu chất trữ tình. Trong một văn bản Khóa hư lục có bài Tựa Thiền tông chỉ nam của Trần TháiTông viết, ông đã kể lại sự việc năm 1236 đang đêm ông bỏ cung điện vào núi,định ở đó tu hành, nhưng Trần Thủ Độ đến nơi, cương quyết mời ông trở lại ngôivua, và câu chuyện này gắn liền với tiểu sử đời ông, với đặc điểm của Phật giáoViệt Nam thời Trần: Năm thứ 5, niên hiệu Thiên ứng Chính bình, đúng đêmmồng ba tháng tư năm Bính Thân (1236), nhân vi hành ra c ửa cung, bảo người tảhữu rằng: Trẫm muốn ra chơi để ngầm nghe lời dân, xem ý dân tình như thế nào...Giờ hợi đêm ấy, một ngựa lẻn ra, qua sông mà đi về phía Đông... Giờ mão ngàyhôm sau thì đến bến đò Phả Lại sông Đại Than, sợ người ta biết, lấy vạt áo chemặt qua sông... Gập ghềnh, núi thẳm khe sâu, ngựa mỏi không tiến đ ược, trẫm bỏngựa leo dốc mà đi, giờ mùi tới đầu núi Yên Tử. Sớm mai lên thẳng đỉnh núi,thăm quốc sư Trúc Lâm đạo sa môn... Bấy giờ Thúc phụ Trần Công (tức ThủĐộ)... nghe tin trẫm bỏ đi, sai tả, hữu tìm kiếm khắp nơi, bèn cùng với các vị quốclão tìm đến núi này. Gặp trẫm, Thái sư nói thống thiết rằng: Bệ hạ vì mục đích tucho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Ví để lờinói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo chothiên hạ?... Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi.... Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo n ước nào lại nêu vấn đề quốc gia xã tắc ravà giải quyết theo hướng đặt quốc gia xã tắc lên trên hết, trước hết như thế. ởViệt Nam, quốc gia xã tắc bao giờ cũng là vấn đề trọng đại nhất. Thái độ đối vớiquốc gia xã tắc chính là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vịnào. Nghe theo tiếng gọi của quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông trở về triều và 22năm sau, Trần Thái Tông đã phá tan quân xâm lược Nguyên Mông, giữ vữngquốc gia xã tắc. Trần Thái Tông quả là người có một tính cách đặc biệt. Lúc làm tướng, đánhgiặc thì anh dũng xông vào mũi tên hòn đạn, khi làm vua, thì phú quý không đủlàm trọng, có thể sẵn sàng từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ngô Thì Sĩ, sử gia thế kỷ 18 đã nhận xét về Trần Thái Tông: Trần Thái Tôngtuy ý từ gần với đạo không tịch mà chí thì rộng xa, cao siêu cho nên bỏ ngôi báunhư trút đôi dép rách vậy. Lời nhận xét này tưởng như một nét khắc thần thái Trần Thái Tông, bó đuốc củaThiền học Việt Nam, gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sửViệt Nam ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
các vua trần nhà thiền học phong kiến việt nam lịch sử việt nam kháng chiến chống quân nguyênGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
69 trang 82 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 51 0 0 -
11 trang 51 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0 -
183 trang 40 0 0