Triều đại Trần Anh Tông (1293 - 1314)1Niên hiệu: Hưng Long 1. ĐỨC ĐỘ VUA ANH TÔNG. Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức vua Anh Tông. Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị đồ vô lại phạm đến. Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng hoàng ở Thiên Trường về kinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triều đại Trần Anh Tông (1293 - 1314) 1 Triều đại Trần Anh Tông (1293 - 1314) 1Niên hiệu: Hưng Long1. ĐỨC ĐỘ VUA ANH TÔNG. Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức vua AnhTông.Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khibị đồ vô lại phạm đến.Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng hoàng ở Thiên Trường vềkinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm,truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hộinghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh, sợ hãi quá, vội vàngchạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài mượn thảo bàibiểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủThiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho AnhTông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nh ữ Hài làm ngự sử trung tân, và từđấy không uống rượu nữa.Từ xưa đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng AnhTông không muốn theo tục ấy. Một hôm Thượng hoàng bảo Anh Tông rằng: Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tụcấy mới được. Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng hoàng bận việckhác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy vua An Nam mới không vẽ lên mình nữa.Tính vua Anh Tông hay vẽ: thường có làm một tập Thuỷ vân tuỳ bút, nhưng đếnlúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng,hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi màbảo rằng: Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chểt”. Xem thế thì biết AnhTông là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấygiờ có cương kỷ lắm.Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như ôngTrương Hán Siêu, võ như ông Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.Phạm Ngũ Lão là người làng Phủ Ủng, huyện Mỹ Hảo, tỉnh Hải Dương, trướctheo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc Nguyên, lập được công to, triều đình trọngdụng cho làm đại tướng. Ngũ Lão trị quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu như ngườinhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chibinh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.Ông Phạm Ngũ Lão đã giỏi nghề võ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuậthoài sau này:Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thuTam quân tỳ hổ khí thôn NgưuNam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.Thời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh,chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên nhữngngười có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đềuđược thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thật là một thời rất thịnh về đời nhàTrần vậy.2. TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG MẤT. Trong đời vua Anh Tông có mấy ngườidanh tướng như là: Thượng tướng Trần Quang Khải, thắng trận Chương Dươngngày trước, mất năm Giáp Ngọ (1294), và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mấtngày 20 tháng tám năm Canh Tí (1300).Hưng Đạo Vương là một người danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyêncó công to với nước, được phong làm Thái sư, Thượng phụ, Thượng quốc công,Bình Bắc đại nguyên suý, Hưng Đạo Đại Vương. Vua lại sai người về Vạn Kiếplàm sinh từ để thờ ngài ở chỗ dinh cũ của ngài đóng ngày trước.Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua AnhTông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khingài sắp mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhân thấy ngài bệnh nặng, mớihỏi rằng: Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang th ì làm thếnào?”Hưng Đạo Vương tâu rằng: “ Nước ta thủa xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp,Hán đế đem binh đến đánh, Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lươngthảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánhquận Tràng Sa, dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê,nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồnglòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thànhBình Lỗ ( thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đờinhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý đế sai Lý Th ường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm,dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bảntriều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh emhoà mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trờigiúp ta mới được thế.Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhauvới tràng, phép dùng binh tướng vẫn thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầmầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ănlá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị;thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tuỳ cơmà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng ...