Danh mục

Trịnh - Nguyễn phân tranh 5

Số trang: 7      Loại file: doc      Dung lượng: 78.00 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chỉ trừ lần đụng độ thứ năm kéo dài 5 năm (1655-1660), các cuộc đụng độ khác giữa Trịnh và Nguyễn đều kéo dài chỉ vài tháng, thậm chí trong chưa đầy một tháng; khoảng cách giữa các cuộc chiến cũng khá dài, thuờng là 5-7 năm, có khi dài tới hàng chục năm. Giữa các cuộc chiến có thời gian đình chiến giúp cả hai bên củng cố thực lực.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trịnh - Nguyễn phân tranh 5 Trịnh-Nguyễn phân tranhThời gian, mật độChỉ trừ lần đụng độ thứ năm kéo dài 5 năm (1655-1660), các cuộcđụng độ khác giữa Trịnh và Nguyễn đều kéo dài chỉ vài tháng, thậmchí trong chưa đầy một tháng; khoảng cách giữa các cuộc chiến cũngkhá dài, thuờng là 5-7 năm, có khi dài tới hàng chục năm. Giữa cáccuộc chiến có thời gian đình chiến giúp cả hai bên củng cố thực lực.Trong khi đó, cuộc chiến tranh Lê-Mạc trong 60 năm diễn ra với mậtđộ liên tục, gần như chỉ một vài năm lại có một cuộc hành quân bắctiến hoặc nam tiến của bên này hoặc bên kia.Lực lượng của Lê và Mạc nhìn chung ngang nhau nên cả hai bên “ănmiếng trả miếng”, lúc thủ lúc đánh. Còn khi đụng đầu với Trịnh,Nguyễn chủ yếu ở thế phòng thủ, dùng chiến lũy kiên cố, địa hìnhhiểm trở để cản đường nam tiến của Trịnh. Lúc đó Nguyễn chưa lấyđược đất Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp nên lực lượng còn hạnchế, vì vậy sau cuộc chiến Nghệ An 1655 – 1660, Nguyễn không thểtái diễn một cuộc chiến dài hơi như vậy với Trịnh.Địa bànChiến tranh Trịnh - Nguyễn chỉ diễn ra ở phạm vi Trung Bộ, thuộccác tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Chiến tranh Lê - Mạc trảikhắp gần như toàn lãnh thổ Đại Việt khi đó, từ Bắc Bộ tới Thanh -Nghệ và có lần tới Thuận Hóa. Vì thế ảnh hưởng và thiệt hại củaquân, dân hai bên trong chiến tranh Lê - Mạc lớn hơn so với chiếntranh Trịnh - Nguyễn.Chính sáchNhân tố quan trọng hơn cả giúp các chúa Trịnh và chúa Nguyễn ngồivững và giữ được cơ nghiệp là chính sách cai trị phù hợp. Ngoài danhnghĩa “phù Lê”, các chúa đều lấy được lòng dân tại khu vực mình caiquản để huy động nhân lực, vật lực vào cuộc chiến. Hơn nữa, cácchúa Trịnh, Nguyễn đều giải quyết nhanh chóng, dứt điểm những rạnnứt từ bên trong chính quyền mình, chủ yếu là những người trongcùng một nhà có ý đồ khác, không để những xung đột nội bộ xé rộnglàm ảnh hưởng tới toàn cục.Sử sách không chép rõ thiệt hại về người qua từng cuộc chiến là baonhiêu nhưng chắc chắn con số thương vong của hai bên phải tới hàngvạn người. Ngoài ra, nhân dân trong vùng chiến sự bị thiệt hại nhiềuhơn cả.Hơn một trăm năm sau, các lũy Trấn Ninh, Trường Dục vẫn vữngchắc như xưa, nhân tài vật lực của Đàng Trong bấy giờ không cònkém Đàng Ngoài nữa, nhưng lòng người lúc đó đã chia lìa nên lũy cao,đất hiểm không còn giúp được họ Nguyễn cản đường quân Trịnh namtiến như 7 lần trước. Quân Trịnh đánh tới như cuốn chiếu, tướngNguyễn thi nhau hàng Trịnh, giúp quận Việp lập công. Sau thành quảchiếm Phú Xuân, họ Trịnh say sưa chiến thắng, tưởng như côngnghiệp của mình đã vượt được cha ông. Đất đai rộng hơn, quân số vàdân số đông thêm, của cải giàu lên, các mối lo cát cứ ở hậu phươngkhông còn, lẽ ra Bắc Hà phải hùng mạnh hơn trước. Thế nhưng chínhsự lại rối ren, nhân dân chán ghét nhà chúa; tướng lười quân kiêu, cònlấy việc mất Thuận Hóa (về tay Tây Sơn) làm may[6], bởi thế cơ đồmới bị mất mau chóng hơn cả nhà Mạc trước kia vốn chỉ còn vùngBắc bộ.Tài đức của người lãnh đạo có thu phục, đoàn kết được nhân dân haykhông mới mang yếu tố quyết định sự mất còn của đất nước.Quân lực đôi bênQuân sốDân số 2 bên chênh lệch nhiều khiến ảnh hưởng lớn tới việc tăngcường quân số. Tính về diện tích lãnh thổ Đàng Ngoài rộng gấp 2 đến3 lần lãnh thổ Đàng Trong. Về dân số thì đầu thế kỷ XVII, từ năm1600 đến 1650, dân số dưới sự cai trị của chúa Trịnh khoảng dưới 5triệu người, trong khi dân số của chúa Nguyễn khoảng 500.000[7]-1.000.000[8] Quân số của hai bên không được thống kê đầy đủ, thườngxuyên bị phóng đại để nghi binh, những thống kê chủ yếu chỉ là consố ước đoán của những người đương thời bấy giờ:Sử gia Phan Khoang trong Việt Sử xứ đàng trong có thống kê quân sốnhư sau: • Không nói rõ năm: Chúa Nguyễn có chừng 22.740 quân chính quy. Chúa Trịnh có chừng 50.000 quân đóng ở Thăng Long (khi đánh nhau sẽ huy động thêm dân binh, hương binh ở địa phương). Số quân này thường xuyên bị hai phe nói phao đôi lúc quân số bị phao từ 10 vạn lên 18 vạn (Trịnh); Nguyễn phóng đại lên 26 vạn. Quân số mỗi phe có thể có tối đa là 20 vạn chính quy và địa phương, và quân chúa Nguyễn lúc nào cũng ít hơn số quân Trịnh.[9] • Thủy binh: quân Trịnh có ưu thế lớn với chừng 600 chiến thuyền to hơn tàu châu Âu và trên mỗi thuyền có 3 đại bác, 25 người chèo và binh sĩ. Trong khi chúa Nguyễn có 200 chiến thuyền.[10] • Một giáo sĩ khác tên Bénigne Vachet: chúa Nguyễn có 40.000 lính: 15.000 thủ Bắc, 9.000 giữ phủ chúa, 6.000 bảo vệ hoàng thân và đại thần và 10.000 binh trấn giữ các khu vực tỉnh lỵ khác. Chiến thuyền 200. Quân bộ chúa Trịnh không có nói, nhưng quân thủy thì khẳng định gấp 3, 4 lần quân chúa Nguyễn. Một tu sĩ tên Choisy kể năm 1697, chúa Nguyễn có 131 chiếc thuyền (chưa tính chiến thuyền địa phương), có chừng 60 tay chèo, 2 pháo thủ, 3 sĩ quan chỉ huy, hai trống trận.[11]Các lần chiến tranh[12] • 1627 không ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: