Danh mục

Vai trò của bảo hiểm đối với tăng trưởng kinh tế và số liệu thực tế tại thị trường bảo hiểm Việt Nam

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 538.17 KB      Lượt xem: 34      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 1 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết tập trung vào việc tóm tắt và đưa ra các quan điểm nghiên cứu từ các tác giả khác nhau về vai trò của ngành Bảo hiểm đối với tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, ngành Bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của bảo hiểm đối với tăng trưởng kinh tế và số liệu thực tế tại thị trường bảo hiểm Việt Nam VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ SỐ LIỆU THỰC TẾ TẠI THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM ThS. Đặng Thị Minh Thủy Khoa Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Bài viết tập trung vào việc tóm tắt và đưa ra các quan điểm nghiên cứu từ các tác giả khác nhau về vai trò của ngành Bảo hiểm đối với tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, ngành Bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các số liệu minh chứng mối quan hệ cùng chiều của ngành Bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam Từ khóa: Bảo hiểm, tăng trưởng kinh tế, bảo hiểm nhân thọ, tài chính 1. Giới thiệu Đối với lĩnh vực tài chính, bảo hiểm từ lâu đã được xem là nhà cung cấp dịch vụ quản lý rủi ro của lĩnh vực này. Quả thực, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là rất cần thiết cho sự phát triển của ngành Ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay có bảo đảm. Bảo hiểm cũng thúc đẩy thương mại và kinh doanh quốc tế giữa các quốc gia, do đó tạo ra doanh thu cho ngân hàng. Tương tự như vậy, với nguồn phí bảo hiểm dài hạn của mình, các DNBH có thể đầu tư dài hạn hơn và do đó khuyến khích sự phát triển của thị trường trái phiếu địa phương và các sàn giao dịch chứng khoán. Tất cả các hoạt động đó đều góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các DNBH cung cấp nhiều loại sản phẩm, được phân thành nhóm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ, ở dạng chung nhất, là sự đảm bảo trả một số tiền cụ thể cho người thụ hưởng khi người được bảo hiểm qua đời hoặc cho những người được bảo hiểm sống quá một độ tuổi nhất định. Ngược lại, bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm tất cả các loại hình bảo hiểm khác, chẳng hạn như: bảo hiểm trách nhiệm tài sản, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hải... Vì bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ có những vai trò khác nhau trong quản lý rủi ro và bồi thường nên tác động cụ thể của chúng sẽ được nghiên cứu riêng biệt cũng như về tác dụng kết hợp của chúng. Trong nghiên cứu của mình, Kathy Avram và cộng sự (2010) sử dụng hai thước đo về bảo hiểm – tỷ lệ thâm nhập bảo hiểm (phí bảo hiểm tính theo phần trăm GDP) và mật độ bảo hiểm (phí bảo hiểm thực tế trên đầu người) – để so sánh tác động của từng chỉ tiêu. Để xem xét mối quan hệ giữa bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế, Kathy Avram và cộng sự (2010) sử 265 dụng kỹ thuật ước tính mặt cắt và bảng điều khiển động trên tập dữ liệu gồm 93 quốc gia trong giai đoạn 1980, mô hình GMM do Arellano và Bond phát triển (1991) và Arellano và Bover (1995). Kết quả đưa ra là ngành Bảo hiểm nói chung, cũng như bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ nói riêng, có mối quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế. Một nghiên cứu khác của Ward và Zurbruegg (2000) về mối quan hệ giữa bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế kết luận rằng, các quốc gia có nền kinh tế khác nhau thể hiện mối quan hệ trên khác nhau. Điều này cho thấy mối quan hệ bảo hiểm - tăng trưởng kinh tế có thể mang tính đặc thù của từng quốc gia. Quan sát dữ liệu sơ bộ của nghiên cứu cho thấy mức độ thâm nhập bảo hiểm (insurance penetration) và mật độ bảo hiểm (insurance density) cao hơn đối với các nước giàu nhưng thấp hơn đáng kể đối với những người có thu nhập thấp. Bằng chứng cho thấy một nước càng phát triển thì sự phát triển của ngành Bảo hiểm càng tác động sâu rộng hơn đến tăng trưởng kinh tế. Ngành Tài chính ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau, chủ yếu bằng các công cụ đa dạng hóa rủi ro, giảm rủi ro thanh khoản và giảm thiểu thông tin bất cân xứng giữa người đi vay và người cho vay (Pietrovito, 2009). Theo nghiên cứu của Levine (2005), phát triển tài chính ảnh hưởng đến các quyết định tiết kiệm và đầu tư của người dân và doanh nghiệp, từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, sự ảnh hưởng này được thể hiện thông qua 6 chức năng: (i) giảm chi phí nghiên cứu cho các khoản đầu tư tiềm năng; (ii) hoạt động quản trị doanh nghiệp; (iii) giao dịch, đa dạng hóa và quản lý rủi ro; (iv) huy động và gộp chung các khoản tiết kiệm; (v) trao đổi hàng hóa và dịch vụ, và (vi) giảm thiểu hậu quả tiêu cực của các cú sốc ngẫu nhiên đối với đầu tư vốn. Các chức năng này giúp bù đắp sự không hoàn hảo và ma sát thương mại của thị trường, dẫn đến việc giảm chi phí giao dịch trong việc đáp ứng các yêu cầu về thanh khoản và rủi ro, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn (Khan và Senhadji, 2000). Nằm trong hệ thống tài chính, bảo hiểm được coi là một công cụ hữu hiệu cho việc đa dạng hóa rủi ro. Cơ chế chuyển giao rủi ro của bảo hiểm giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo một số cách khác nhau. Với hoạt động chuyển giao và gộp chung các nhóm rủi ro tương đồng, bảo hiểm giúp thúc đẩy sự ổn định tài chính cho cả doanh nghiệp và hộ gia đình. Thông qua việc thu phí sản phẩm bảo hiểm, các doanh nghiệp đồng thời cam kết chi trả cho các tổn thất ngẫu nhiên và có giá trị lớn. Tương tự, các cá nhân có chia nhỏ những tổn thất tài chính của mình theo thời gian và cho những người khác khi tham gia một quỹ bảo hiểm. Từ đó, kinh tế hộ gia đình và thậm chí là thu nhập liên tục của gia đình sẽ được đảm bảo dù cho rủi ro tài chính có thể xảy ra trong tương lai (Soo, 1996). Thông qua dịch vụ giảm thiểu rủi ro và chuyển giao, bảo hiểm có thể giúp giảm thiểu rủi ro tổng thể cho nền kinh tế mỗi nước. Cơ chế gộp chung cũng như quy luật số lớn cho phép DNBH chuyển đổi các rủi ro ngẫu nhiên riêng lẻ thành các danh mục tổn thất cố định và có thể dự đoán được. Trong quá trình đó, việc giảm thiểu rủi ro có thể đạt được thông qua 2 ...

Tài liệu được xem nhiều: