Danh mục

Vấn đề đạo thiên chúa trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây thời nhà Nguyễn (1802 -1858)

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 288.87 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nội dung bài viết cho thấy quá trình truyền bá đạo Thiên Chúa được thúc đẩy trên phạm vi toàn thế giới, và một phần nào đó cũng gắn bó chặt chẽ với quá trình bành trướng, xâm lược thuộc địa củachủ nghĩa thực dân phương Tây.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vấn đề đạo thiên chúa trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây thời nhà Nguyễn (1802 -1858)VẤN ĐỀ ĐẠO THIÊN CHÚA TRONG QUAN HỆGIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂYTHỜI NHÀ NGUYỄN (1802-1858)TRẦN NAM TIẾN**Hình thành từ thế kỷ I ở đế quốc Romacổ đại, Thiên Chúa giáo1 ngày càng phổcập và giữ vai trò thống trị trong cuộc sốngtâm linh của người châu Âu. Vào các thếkỷ XV-XVI, khi người phương Tây pháthiện ra châu Mỹ và là con đường đi vòngquanh thế giới, bắt đầu trao đổi, buôn bánvà chinh phục các vùng đất thuộc các châulục khác thì Thiên Chúa giáo cũng trởthành một phương tiện thâm nhập hết sứcquan trọng của họ. Các giáo sĩ Thiên Chúagiáo thuộc nhiều dòng tu khác nhau đã theocác thuyền buôn thâm nhập vào các nướcngoài châu Âu để truyền đạo. Trên thực tế,quá trình truyền bá đạo Thiên Chúa đượcthúc đẩy trên phạm vi toàn thế giới, và mộtphần nào đó cũng gắn bó chặt chẽ với quátrình bành trướng, xâm lược thuộc địa củachủ nghĩa thực dân phương Tây. Do đó,cũng thật dễ hiểu khi Thiên Chúa giáothường được xem như là “công cụ” của cácnước thực dân phương Tây trong quá trìnhbành trướng ra ngoài châu Âu.Ở Việt Nam, sử cũ đã ghi lại, sự kiệnnăm 1533, một người phương Tây, Ignaceđã lén lút lên truyền đạo ở xã Ninh Cường(Nam Trực, Nam Định), xã Trà Lũ (TháiBình) và xã Quần Anh (Hải Hậu, NamĐịnh)2. Ở Đàng Trong, Pétrus Ký có ghi lạirằng năm 1596 dưới triều Nguyễn Hoàngđã có một giáo sĩ Tây Ban Nha tên là*TS. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhânvăn, TP. Hồ Chí MinhDiego Adverte đã tới giảng đạo ThiênChúa3. Từ thế kỷ XVII, các giáo sĩ phươngTây đã đến Việt Nam truyền đạo nhiềuhơn. Trong quá trình truyền bá ở ViệtNam, Thiên Chúa giáo đã có những đónggóp nhất định cho sự phát triển của vănhóa Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như kiếntrúc, báo chí, văn chương, ngôn ngữ, lốisống, giáo dục… “Trong hàng ngũ giáo sĩcó những người chỉ hoạt động vì đức tin vàcũng có những góp phần truyền bá một sốkỹ thuật phương Tây vào Việt Nam”4. Cóthể xem các giáo sĩ chính là những ngườiđầu tiên làm cầu nối, giới thiệu những tiếnbộ của văn minh phương Tây tới ViệtNam. Trong công cuộc truyền bá này, việcra đời chữ Quốc ngữ được xem là mộtthành tựu quan trọng của các giáo sĩphương Tây. Các giáo sĩ đã giảng đạo bằngtiếng Việt, viết nhiều sách giáo lý bằngQuốc ngữ. Chữ Quốc ngữ sau đó ngàycàng được phổ biến và sử dụng rộng rãi vàcó vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoáViệt Nam các thời kỳ sau.Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng,trên bước đường hình thành và phát triểncủa chủ nghĩa thực dân phương Tây, ThiênChúa giáo hầu như là bạn đồng hành. Cácgiáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Phápvào Việt Nam đều có những hoạt động ítnhiều xác nhận điều nói trên. Trong cuộcchiến tranh với Tây Sơn, Nguyễn Ánh đãnhờ Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau deBéhaine) đưa Hoàng tử Cảnh sang PhápTạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 10/20122xin viện trợ quân sự. Năm 1787, dưới sựvận động của Bá Đa Lộc, vua Pháp đãđồng ý ký với Nguyễn Ánh Hiệp ướcVersailles, qua đó cam kết đưa quân sanggiúp Nguyễn Ánh5. Mặc dầu hiệp ước giữahai bên không thực hiện được vì sự ngăntrở của Cách mạng tư sản Pháp 1789, giámmục Bá Đa Lộc cố gắng thực hiện ý đồ củamình. Trong khi đó, nhân tình hình biếnđộng của xã hội, nhất là ở Đàng Ngoài, cácgiáo sĩ Thiên Chúa giáo ra sức hoạt độngtruyền giáo. Dưới thời Tây Sơn, đã có lúcgiáo sĩ được tự do đi lại, giảng đạo, nhưngrồi sau đó bị cấm đoán, hạn chế. Từ khiphong trào cách mạng tư sản bùng lên ởchâu Âu, một số quan chức thực dân tìmcách dựa vào các giáo sĩ để tạo điều kiệnnhảy vào Việt Nam. Các giám mục SaintPhalles, Bá Đa Lộc, Pellerin v.v… đã giúphọ. Nhiều giáo dân bất bình với các tệ nạnxã hội, với chế độ của các chúa đã bị họxúi giục, từ bỏ các tục lệ cổ truyền dân tộc,theo họ một cách cuồng tín. Số giáo dântăng lên, mâu thuẫn lương - giáo nảy sinh,có lúc gây thành xung đột. Và đây cũng làmột nguyên nhân quan trọng dẫn đến chínhsách cấm đạo của các triều sau, là dưới thờinhà Nguyễn.1. Thời kỳ Gia Long (1802-1820).Do quan hệ gần gũi với Bá Đa Lộc vàchịu ơn giúp đỡ của người Pháp trong cuộcchiến với Tây Sơn, Gia Long khi lên ngôi(1802) vẫn để cho việc truyền đạo ThiênChúa được tồn tại và phát triển tương đốithuận lợi. Lợi dụng ưu thế đó, các giáo sĩngười Pháp đã đẩy mạnh việc vận độngtrong dân chúng ở Việt Nam phát triển cáccơ sở đạo Thiên Chúa, thu nạp thêm nhiềugiáo dân, trên cơ sở khuyếch trương thế lựcchính trị và tinh thần cho nước Pháp. Đếnlúc này, Gia Long đã thực sự lo ngại, nhấtlà từ khi các giáo sĩ Pháp ngấm ngầm hayra mặt phản đối việc nhà vua chọn hoàngtử Đảm làm Thái tử, vì họ ủng hộ việc nhàvua đưa con trai của Hoàng tử Cảnh lên nốingôi Gia Long. Từ đó, Gia Long đối vớiđạo Thiên Chúa chỉ còn có “khinh bỉ vàthù hận”6.Nhìn chung, trong suốt thời kỳ nắmquyền, Gia Long chủ trương dung hòa.Ông không thể chống đạo một cách côngkhai, cũng không thể “cải đạo”. Gia Longđã nhìn ...

Tài liệu được xem nhiều: