Về tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 245.48 KB
Lượt xem: 19
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Các thành quả đã được công bố trong hai cuốn sách: Mông Phụ, un village du delta du fleuve Rouge(1) và Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ(2). Trước đó, tôi cũng đã nghiên cứu làng Bảo An ở Quảng Nam(3). Sau đây, tôi xin ghi lại vài tâm đắc về làng xã Việt Nam đã được trình bày chủ yếu trong các cuốn sách nói trên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa51CHUYÊN MỤCSỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁOVỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI XƯANGUYỄN TÙNGTừ 1990 đến 2002, trong hơn mười năm, chúng tôi đã tham gia hai chương trìnhnghiên cứu về làng xã ở đồng bằng sông Hồng trong khuôn khổ hợp tác khoahọc giữa Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) vớiTrung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Pháp), rồi với Viện Viễn Đông Báccổ (Pháp). Các thành quả đã được công bố trong hai cuốn sách: Mông Phụ, unvillage du delta du fleuve Rouge(1) và Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đềcòn bỏ ngỏ(2). Trước đó, tôi cũng đã nghiên cứu làng Bảo An ở Quảng Nam(3).Sau đây, tôi xin ghi lại vài tâm đắc về làng xã Việt Nam đã được trình bày chủyếu trong các cuốn sách nói trên.1. LÀNG XÃ, VẤN ĐỀ THUẬT NGỮQua Dư địa chí của Nguyễn Trãi, tabiết là ngay từ thế kỷ XV rất nhiều từHán Việt được dùng để chỉ đơn vịhành chính cơ sở ở Việt Nam: hương,giáp, phường, trại, động, sách, thôn...và nhất là xã (Nguyễn Trãi, 1976, tr.209-246). Tình trạng đó đã kéo dài ítra cho đến đầu thế kỷ XIX như tathấy trong cuốn Các trấn tổng xãdanh bị lãm (1981), được viết vàokhoảng các năm 1810-1813, nên cầnNguyễn Tùng. Nhà nghiên cứu dân tộc học,chuyên nghiên cứu về người Việt, trướcđây từng dạy ở đại học Paris Diderot và làmviệc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứuKhoa học (CNRS, Pháp).định nghĩa cũng như bình luận về cáctừ nói trên.Xã: là từ thường gặp nhất (đến hơn90% trong Các trấn tổng xã danh bịlãm). Thông thường nó chỉ một lànglớn hay ít ra được chính quyền côngnhận như thế. Nhưng nhiều xã ghitrong Các trấn tổng xã danh bị lãm chỉcó chưa đến mười dân nội tịch(4). Vàokhoảng những năm 1930, ở Bắc Ninhkhoảng 74% các làng thuộc loại “nhấtxã nhất thôn” và 24% gồm từ hai đếnbốn thôn (xem Nguyễn Văn Huyên,1996). Từ đầu thế kỷ XX trở đi, việcdùng từ xã để chỉ các đơn vị hànhchính cơ sở ngày càng trở nên phổbiến: vào năm 1928, tất cả các đơn vị52NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM…hành chính cơ sở ở Bắc Kỳ đều đượcgọi là xã (xem Ngô Vi Liễn, 1928).Thôn: chỉ một xã nhỏ với tất cả cácchức năng của một đơn vị hành chínhcơ sở. Nhưng, như vừa trình bày trênđây, thôn cũng là một đơn vị địa vựcnằm bên trong xã. Khác với xóm, thônthường có đình và một số tập tụcriêng, nên có bản sắc khá đậm nét sovới các thôn khác cùng xã. Từ thờiMinh Mạng (1820 - 1840), các thônthuộc xã do phó lý cầm đầu.Phường: chỉ một xã ở đô thị hay mộtxã mà phần đông dân cùng làm mộtnghề, thủ công hay buôn bán. Phườngcòn được dùng để chỉ một hội ngànhnghề. Trước thời Pháp thuộc, phủHoài Đức (tức nội thành Hà Nội ngàynay) có rất nhiều phường.Phường thủy cơ (hay thủy cơ): là làngở trên sông. Theo Pierre Gourou (1965,tr. 437-442), vào những năm 1930,nó “gồm toàn thuyền hay bè, dân làngsống bằng nghề đánh cá hay vận tải”.Phường tứ chiếng: gồm toàn dân “tứchiếng”, tức là những người đến từnhiều nơi, có gốc gác không rõ. Haithành ngữ trai tứ chiếng và gái gianghồ thường sóng đôi nhau với nghĩa rấtxấu. Phải chăng từ tứ chiếng phái sinhtừ tứ trấn bao quanh kinh thànhThăng Long dưới triều Lê (Kinh Bắc,Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây)?Giáo phường: gồm những gia đìnhlàm nghề hát xướng, đàn địch.Trang: chỉ các làng thời xưa (chủ yếutừ đời Lý Trần) vốn là điền trang docác ông hoàng, bà chúa, các nhà quýtộc hay quan lớn lập ra.Trại: chỉ các làng lúc đầu gồm các lềuthô sơ để ở tạm do nhu cầu lao động.Chẳng hạn, vào đầu thế kỷ XIX, MôngPhụ (thuộc xã Đường Lâm, Hà Nội) cóxóm Trại sẽ trở thành thôn Phụ Khanghiện nay có số dân gần bằng MôngPhụ.Sở: nguyên xưa đây là các sở đồnđiền mà dường như, theo Đại Việt sửký toàn thư (1968, III, tr. 276), Lê ThánhTông là vị vua đầu tiên đã cho lập vàonăm 1481 để phát triển nông nghiệp.Châu: làng được lập trên đất bồi ở vensông.Vạn: làng chài. Trong từ điển củaAlexandre de Rhodes xuất bản năm1651, vạn được định nghĩa là “nơi tụtập nhiều thuyền bè để buôn bán”. Nócòn chỉ tập hợp những người làmchung một nghề, như vạn buôn, vạnxe, vạn cấy…Giáp: từ này rất ít khi được dùng đểchỉ đơn vị hành chính cơ sở, ngoại trừở Thanh Hóa và nhất là ở Nghệ An(xem thêm dưới đây phần viết về giápnhư là tổ chức bên trong xã).Phố: trong từ điển của Alexandre deRhodes xuất bản năm 1651, từ nàychỉ một “con đường có các cửa hàngbuôn bán” (Rhodes, 1651, tr. 602).Hiện nay ở các đô thị miền Bắc, cáccon đường vẫn được gọi là phố (phốHuế, phố Bà Triệu...), khác với cáchgọi ở miền Nam. Trong Các trấn tổngxã danh bị lãm, các tỉnh miền núi BắcBộ có rất nhiều phố: 5 ở An Quảng, 6ở Tuyên Quang, 20 ở Cao Bằng, 40 ởLạng Sơn. Ðiều đó chứng tỏ là vàođầu thế kỷ XIX, trao đổi hàng hóaTAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015bằng đường bộ giữa Việt Nam vàTrung Quốc được thực hiện chủ yếuthông qua Cao Bằng và nhất là LạngSơn. Ở hai tỉnh này, còn có nhiều chợvà quán được ghi như là các đơn vịhành chính cơ sở. Ðiều đáng ghi nhậnlà cá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về tổ chức xã hội ở Việt Nam thời xưa51CHUYÊN MỤCSỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁOVỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI XƯANGUYỄN TÙNGTừ 1990 đến 2002, trong hơn mười năm, chúng tôi đã tham gia hai chương trìnhnghiên cứu về làng xã ở đồng bằng sông Hồng trong khuôn khổ hợp tác khoahọc giữa Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) vớiTrung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Pháp), rồi với Viện Viễn Đông Báccổ (Pháp). Các thành quả đã được công bố trong hai cuốn sách: Mông Phụ, unvillage du delta du fleuve Rouge(1) và Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đềcòn bỏ ngỏ(2). Trước đó, tôi cũng đã nghiên cứu làng Bảo An ở Quảng Nam(3).Sau đây, tôi xin ghi lại vài tâm đắc về làng xã Việt Nam đã được trình bày chủyếu trong các cuốn sách nói trên.1. LÀNG XÃ, VẤN ĐỀ THUẬT NGỮQua Dư địa chí của Nguyễn Trãi, tabiết là ngay từ thế kỷ XV rất nhiều từHán Việt được dùng để chỉ đơn vịhành chính cơ sở ở Việt Nam: hương,giáp, phường, trại, động, sách, thôn...và nhất là xã (Nguyễn Trãi, 1976, tr.209-246). Tình trạng đó đã kéo dài ítra cho đến đầu thế kỷ XIX như tathấy trong cuốn Các trấn tổng xãdanh bị lãm (1981), được viết vàokhoảng các năm 1810-1813, nên cầnNguyễn Tùng. Nhà nghiên cứu dân tộc học,chuyên nghiên cứu về người Việt, trướcđây từng dạy ở đại học Paris Diderot và làmviệc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứuKhoa học (CNRS, Pháp).định nghĩa cũng như bình luận về cáctừ nói trên.Xã: là từ thường gặp nhất (đến hơn90% trong Các trấn tổng xã danh bịlãm). Thông thường nó chỉ một lànglớn hay ít ra được chính quyền côngnhận như thế. Nhưng nhiều xã ghitrong Các trấn tổng xã danh bị lãm chỉcó chưa đến mười dân nội tịch(4). Vàokhoảng những năm 1930, ở Bắc Ninhkhoảng 74% các làng thuộc loại “nhấtxã nhất thôn” và 24% gồm từ hai đếnbốn thôn (xem Nguyễn Văn Huyên,1996). Từ đầu thế kỷ XX trở đi, việcdùng từ xã để chỉ các đơn vị hànhchính cơ sở ngày càng trở nên phổbiến: vào năm 1928, tất cả các đơn vị52NGUYỄN TÙNG – VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM…hành chính cơ sở ở Bắc Kỳ đều đượcgọi là xã (xem Ngô Vi Liễn, 1928).Thôn: chỉ một xã nhỏ với tất cả cácchức năng của một đơn vị hành chínhcơ sở. Nhưng, như vừa trình bày trênđây, thôn cũng là một đơn vị địa vựcnằm bên trong xã. Khác với xóm, thônthường có đình và một số tập tụcriêng, nên có bản sắc khá đậm nét sovới các thôn khác cùng xã. Từ thờiMinh Mạng (1820 - 1840), các thônthuộc xã do phó lý cầm đầu.Phường: chỉ một xã ở đô thị hay mộtxã mà phần đông dân cùng làm mộtnghề, thủ công hay buôn bán. Phườngcòn được dùng để chỉ một hội ngànhnghề. Trước thời Pháp thuộc, phủHoài Đức (tức nội thành Hà Nội ngàynay) có rất nhiều phường.Phường thủy cơ (hay thủy cơ): là làngở trên sông. Theo Pierre Gourou (1965,tr. 437-442), vào những năm 1930,nó “gồm toàn thuyền hay bè, dân làngsống bằng nghề đánh cá hay vận tải”.Phường tứ chiếng: gồm toàn dân “tứchiếng”, tức là những người đến từnhiều nơi, có gốc gác không rõ. Haithành ngữ trai tứ chiếng và gái gianghồ thường sóng đôi nhau với nghĩa rấtxấu. Phải chăng từ tứ chiếng phái sinhtừ tứ trấn bao quanh kinh thànhThăng Long dưới triều Lê (Kinh Bắc,Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây)?Giáo phường: gồm những gia đìnhlàm nghề hát xướng, đàn địch.Trang: chỉ các làng thời xưa (chủ yếutừ đời Lý Trần) vốn là điền trang docác ông hoàng, bà chúa, các nhà quýtộc hay quan lớn lập ra.Trại: chỉ các làng lúc đầu gồm các lềuthô sơ để ở tạm do nhu cầu lao động.Chẳng hạn, vào đầu thế kỷ XIX, MôngPhụ (thuộc xã Đường Lâm, Hà Nội) cóxóm Trại sẽ trở thành thôn Phụ Khanghiện nay có số dân gần bằng MôngPhụ.Sở: nguyên xưa đây là các sở đồnđiền mà dường như, theo Đại Việt sửký toàn thư (1968, III, tr. 276), Lê ThánhTông là vị vua đầu tiên đã cho lập vàonăm 1481 để phát triển nông nghiệp.Châu: làng được lập trên đất bồi ở vensông.Vạn: làng chài. Trong từ điển củaAlexandre de Rhodes xuất bản năm1651, vạn được định nghĩa là “nơi tụtập nhiều thuyền bè để buôn bán”. Nócòn chỉ tập hợp những người làmchung một nghề, như vạn buôn, vạnxe, vạn cấy…Giáp: từ này rất ít khi được dùng đểchỉ đơn vị hành chính cơ sở, ngoại trừở Thanh Hóa và nhất là ở Nghệ An(xem thêm dưới đây phần viết về giápnhư là tổ chức bên trong xã).Phố: trong từ điển của Alexandre deRhodes xuất bản năm 1651, từ nàychỉ một “con đường có các cửa hàngbuôn bán” (Rhodes, 1651, tr. 602).Hiện nay ở các đô thị miền Bắc, cáccon đường vẫn được gọi là phố (phốHuế, phố Bà Triệu...), khác với cáchgọi ở miền Nam. Trong Các trấn tổngxã danh bị lãm, các tỉnh miền núi BắcBộ có rất nhiều phố: 5 ở An Quảng, 6ở Tuyên Quang, 20 ở Cao Bằng, 40 ởLạng Sơn. Ðiều đó chứng tỏ là vàođầu thế kỷ XIX, trao đổi hàng hóaTAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 7 (203) 2015bằng đường bộ giữa Việt Nam vàTrung Quốc được thực hiện chủ yếuthông qua Cao Bằng và nhất là LạngSơn. Ở hai tỉnh này, còn có nhiều chợvà quán được ghi như là các đơn vịhành chính cơ sở. Ðiều đáng ghi nhậnlà cá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí khoa học xã hội Về tổ chức xã hội Tổ chức xã hội Xã hội Việt Nam thời xưa Khoa học xã hộiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 259 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 254 0 0 -
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 206 0 0 -
Giáo trình Luật hành chính và tố tụng hành chính (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
87 trang 137 0 0 -
Tiểu luận: Xã hội học chính trị - xã hội học dân sự
15 trang 124 0 0 -
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 114 0 0 -
13 trang 107 0 0
-
1 trang 65 0 0
-
Tiểu luận: Nhóm Xã Hội Gia Đình
13 trang 65 0 0 -
Đề tài: Xây dựng dự án khả thi hệ thống quản lý thư viện ĐHQG HN
20 trang 62 0 0