Danh mục

Vì sao Tiền Giang là nơi có nhiều Hoàng hậu nhất trời Nam?

Số trang: 25      Loại file: pdf      Dung lượng: 412.78 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 12,000 VND Tải xuống file đầy đủ (25 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trước ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, cả hai “đệ nhất phu nhân” ở hai miền đất nước đều sinh ra ở Tiền Giang. Vì sao một vùng đất mới khai phá bên bờ sông Tiền lại có nhiều “hoàng hậu” nhất nước? Tất nhiên là thiếu nữ Tiền Giang phải đẹp (điều kiện cần để trở thành hoàng hậu), nhưng còn yếu tố nào nữa? Và vì sao thiếu nữ ở đây lại làm mê hồn các vì vua?Bà hoàng sống gần trọn triều Nguyễn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vì sao Tiền Giang là nơi có nhiều Hoàng hậu nhất trời Nam?Vì sao Tiền Giang là nơicó nhiều Hoàng hậu nhất trời Nam?Trước ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, cảhai “đệ nhất phu nhân” ở hai miền đất nước đều sinh ra ởTiền Giang. Vì sao một vùng đất mới khai phá bên bờ sôngTiền lại có nhiều “hoàng hậu” nhất nước? Tất nhiên là thiếunữ Tiền Giang phải đẹp (điều kiện cần để trở thành hoànghậu), nhưng còn yếu tố nào nữa? Và vì sao thiếu nữ ở đây lạilàm mê hồn các vì vua?Bà hoàng sống gần trọn triều NguyễnTrong lịch sử thế giới, không có bà hoàng nào đứng vững, cóquyền chi phối quốc gia, sống qua hơn 5 đời vua. Thế nhưng,ở nước Việt Nam lại có một bà hoàng hậu (sau đó là thái hậu)sống qua 8 đời vua. Không chỉ sống, bà còn chi phối côngviệc, tư cách, đạo đức của các vị vua là con, cháu, chắt củamình. Đó là bà Từ Dũ. Cha bà là ông Phạm Đăng Hưng, thiđỗ Tam trường trong kỳ thi kinh dưới thời vua Gia Long,được triều đình cử làm quan ở nhiều nơi, sau về kinh thànhHuế. Tên đúng của bà là Thái hậu Từ Dụ, sau này bị đọc lệchthành Từ Dũ.Bà tên thật là Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 nămCanh Ngọ (tức ngày 20 tháng 6 năm 1810) tại giồng Sơn Quy(Gò Rùa), làng Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (sauthuộc tỉnh Gò Công, nay thuộc Tiền Giang). Cô bé Phạm ThịHằng dù sống ở vùng quê nghèo Gò Công nhưng vẫn đượchọc hành đàng hoàng. Cô nổi tiếng hiếu hạnh, làu thông kinhsử, rất mực hiền thục.Ngay từ thuở nhỏ, bà đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, hiếuthuận, ham đọc sách. Năm 14 tuổi, bà rời Gò Công, theo chara kinh thành Huế. Cũng trong năm đó, bà được Thuận ThiênCao Hoàng Hậu Trần Thị Đang - vợ kế của vua Gia Long -tuyển triệu vào hầu hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc MiênTông, con vua Minh Mạng, và là cháu trai của bà. Năm 15tuổi, bà sinh con gái đầu lòng, năm sau lại sinh cô công chúathứ hai. Năm Kỷ Sửu (1829), bà sinh người con thứ ba là trai,đặt tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, người về sau trở thànhvua Tự Đức.Năm 1841, Miên Tông lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiệu Trị,bà trở thành cung tần, được phong làm Giai phi, rồi Nhất giaiphi. Năm 1847, vua Thiệu Trị mất, con bà là Hồng Nhậmđược chọn nối nghiệp, trở thành vua Tự Đức. Lên ngôi vua,Tự Đức nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn cho mẹ, nhưng bà nhấtđịnh chối từ. Mãi đến năm 1849, nhân dịp khánh thành cungGia Thọ, bà mới thuận nhận Kim bảo (sách vàng và ấn vàng)và tôn hiệu là Hoàng Thái hậu. Năm 1883, vua Tự Đức mất,để di chiếu tôn bà làm Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu. Bà mấtnăm 1902, thọ 92 tuổi.Bà Từ Dũ được người đời ngưỡng mộ như là bà hoàng tàiđức vẹn toàn, yêu nước thương dân, sống giản dị, khiêm tốn.Những đức tính của bà đã ảnh hưởng rất lớn đến tư cách củavua Tự Đức. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kimchép: “Đức Từ Dụ thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đờicũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, thì ngài biênngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực,gặp phải khi nước lụt. Còn hai ngày nữa thì có kỵ đức HiếnTổ, mà ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đạithần là Nguyễn Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương điđược nửa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo lên, mànước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối,thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vộivàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. ĐứcTừ Dụ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả.Ngài lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồingài nằm xuống xin chịu đòn.Cách một hồi lâu, Đức Từ Dụ xoay mặt ra, lấy tay hất cái roimà ban rằng: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cựckhổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầukỵ”. Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó, ngài phê thưởng cho cácquan quân đi hầu ngự...”.Lo lắng đến cuộc sống nhân dân, bà thường hỏi vua Tự Đứcvề việc đắt thất và dạy bảo những điều thiết thực về chính trị.Năm 1874, khi hay tin Pháp xâm chiếm toàn cõi Nam Kỳ vàbuộc triều đình Huế ký hòa ước nhượng địa, bà bỏ cả ănuống, mặt ủ mày chau theo vận nước khuynh nguy...Ở Huế, bà nổi tiếng là một bà thái hậu rất thương dân. Hằngnăm, đến lễ mừng thăng cấp, mừng thọ của bà, bà đều tìmcách thoái thác hoặc trì hoãn, thực chất là sợ khổ dân... Tínhtình Hoàng Thái hậu Từ Dũ đoan chính, nhàn nhã, cử chỉkhiêm cung lễ độ, ở trong cung ai cũng cảm mến và quýtrọng đức độ. Trong cuộc sống hằng ngày, bà rất tiết kiệmtiêu dùng và nghiêm khắc đối với sự lãng phí, xa hoa. Bàthẳng thắn phê phán tệ tham ô chức quyền trong triều chínhvà các địa hạt.Bà nói: “Từ xưa đến nay, quan lại chỉ một chữ tham mà chưatrừ được. Mọt nước hại dân cũng từ đó mà ra. Làm quan mấynăm, vị nào cũng giàu có gấp bội. Của ấy không lấy của dânthì lấy ở đâu? Nên phải quyết trừ”. Bà khuyên triều thần“một sợi tơ, một hột gạo cũng đều là máu mỡ của dân, chonên lãng phí đã không ích gì, mà lại đáng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: