Viêm mũi dị ứng và thuốc dùngViêm mũi dị ứng (VMDƯ) là loại bệnh khá phổ biến, ngày càng gặp nhiều do công nghiệp phát triển. Có người chỉ bị VMDƯ theo mùa, có người bị quanh năm. Bệnh có ba biểu hiện chính là hắt hơi hàng tràng, ngạt tắc mũi, chảy nhiều nước mũi. Có thể kèm theo ngứa mắt, ngứa mũi… Nguyên nhân bệnh và biểu hiện VMDƯ Nguyên nhân bệnh sinh là do sự quá mẫn của niêm mạc mũi đối với các kích thích mà y học gọi là dị nguyên (chất gây ra dị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm mũi dị ứng và thuốc dùng Viêm mũi dị ứng và thuốc dùngViêm mũi dị ứng (VMDƯ) là loại bệnh khá phổ biến, ngày càng gặp nhiều docông nghiệp phát triển. Có người chỉ bị VMDƯ theo mùa, có người bị quanhnăm. Bệnh có ba biểu hiện chính là hắt hơi hàng tràng, ngạt tắc mũi, chảynhiều nước mũi. Có thể kèm theo ngứa mắt, ngứa mũi…Nguyên nhân bệnh và biểu hiện VMDƯNguyên nhân bệnh sinh là do sự quá mẫn của niêm mạc mũi đối với các kích thíchmà y học gọi là dị nguyên (chất gây ra dị ứng). Những dị nguyên hay gặp trongVMDƯ là bụi nhà, phấn hoa, nấm mốc, lông súc vật, hóa chất… Bệnh hay xảy ratrên những cơ địa đặc biệt có tính chất di truyền và có đặc điểm là sự bấp bênhgiữa thần kinh giao cảm và đối giao cảm. Triệu chứng thường xuất hiện đột ngộttừng cơn hay gặp lúc sáng sớm khi thời tiết thay đổi: đột nhiên ngứa ở hai bên hốcmũi lan lên mắt, xuống họng. Sau đó hắt hơi liên tục thành từng cơn 5 – 10 cáithậm chí nhiều hơn nữa. Tiếp đó là chảy nhiều nước mũi, ngạt tắc mũi dữ dội cảhai bên. Các cơn nói trên xuất hiện nhiều lần trong ngày, thường kéo dài 3 – 5ngày và chỉ mất đi khi các dị nguyên không còn nữa.Dị ứng là hiện tượng giải phóng nhiều histamin. Trong cơ thể luôn có sự cân bằnggiữa histamin tự do và histamin kết hợp nên không xảy ra điều gì. Nhưng khi có dịnguyên xâm nhập thì sẽ xảy ra tình trạng giải phóng nhiều histamin làm cho lượnghistamin tăng lên đột ngột dẫn đến các biểu hiện dị ứng.Điều trị như thế nào?VMDƯ là loại bệnh khó điều trị khỏi hoàn toàn, vì cơ địa dị ứng của người bệnh,và vì rất khó loại trừ các dị nguyên khỏi môi trường sống. Điều trị VMDƯ khôngthể có một công thức, một phác đồ chung cho mọi trường hợp, mà phải tìm chomỗi trường hợp một phương pháp thích hợp:Thuốc chống ngạt mũiThường dùng naphazolin, xylometazolin… nhỏ hoặc xịt 2 – 3 lần mỗi ngày.Thuốc làm cường giao cảm gây co mạch chống phù nề do đó hết ngạt tắc mũi,người bệnh dễ thở, cảm thấy dễ chịu ngay. Tuy nhiên, cần lưu ý không lạm dụng,chỉ dùng thuốc nhỏ hoặc xịt mũi trong thời gian ngắn (thường không quá 7 ngày)vì dùng các loại này kéo dài dễ gây hiện tượng quen thuốc, không có hiệu quả nữa,thậm chí còn gây “tác dụng dội ngược” làm ngạt mũi nhiều hơn. Bởi vậy khôngnên dùng liều cao dài ngày. Không dùng cho trẻ em dưới 7 tuổi.Nhóm corticoidTuy có thể dùng viên thuốc uống chống viêm chống dị ứng tác dụng toàn thân,nhưng nó có nhiều tác dụng phụ có thể gây hại. Bởi vậy, corticoid nên dùng dạngxịt vào mũi (beclometason, budesonid, fluticason…) thì tốt hơn. Thuốc không cótác dụng tức thời, mà thường có tác dụng sau 2 -3 ngày. Khi xịt, thuốc chủ yếu tácdụng tại chỗ, tuy có hấp thu vào máu nhưng với hàm lượng rất nhỏ, không gây tácdụng phụ như corticoid dùng uống. Nếu dùng, người bệnh nên xịt sớm khi bệnhcòn nhẹ. Việc điều trị cần phải kéo dài một thời gian nhất định, thường một nămdùng một tháng thì bệnh gần như ổn định trong cả năm.Nhóm kháng histaminCác thuốc kháng histamin chống dị ứng là những thuốc có tác dụng khánghistamin bằng cơ chế tranh chấp với histamin ở thụ thể (receptor) H1 trong cơ thểđẩy histamin ra khỏi thụ thể H1, khiến cho biểu hiện lâm sàng của dị ứng khôngcòn nữa.Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc kháng histamin. Nhưng tùy thuộcvào mức độ nặng, nhẹ của bệnh mà thầy thuốc kê đơn và liều lượng cho phù hợp,nhằm kiểm soát tốt các triệu chứng dị ứng. Dựa vào tính chất tác dụng dược lý vàtrình tự phát triển người ta chia ra các loại kháng histamin sau:- Các thuốc kháng histamin thế hệ 1: Tuy đã được dùng từ lâu nhưng có nhượcđiểm là phải dùng nhiều lần trong ngày, gây khô miệng và buồn ngủ, nên hiện nayít dùng.- Các thuốc kháng histamin thế hệ 2 (loratadin, certirizin, terfenadine…): Là cácthuốc được ưa chuộng hơn thế hệ 1, liều dùng đơn giản hơn, thông thường là mộtlần uống trong ngày, nhưng cũng còn một số hạn chế như ảnh hưởng đến chứcnăng gan, có thể gây buồn ngủ nhẹ.- Các thuốc kháng histamin thế hệ 3: Đó là fexofenadin chất chuyển hóa củaterfenadin. Fexofenadin cũng giống như terfenadin ức chế sự giải phóng chất trunggian từ các dưỡng bào (mastocyt). Nó có tính chất tương tự các kháng histamin thếhệ 2 như loratadin… là ở chỗ chọn lọc với thụ thể H1 ngoại vi chứ không gắn vớithụ thể muscarin, do đó không có tác dụng an thần và kháng tiết cholin như vẫnthường xảy ra với các thuốc kháng histamin thế hệ 1. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc kháng histamin.Hiệu quả điều trị VMDƯ của fexofenadin cũng tương tự như của terfenadin.Nhưng vì nó không chuyển hóa qua gan nhiều nên fexofenadin không tương tácvới các thuốc được chuyển hóa. Vấn đề quan trọng hơn, fexofenadin không tươngtác với các kênh kali ở tim, do đó không có khuynh hướng như terfenadin (nhất làastemizol) là làm tăng khoảng QT trên điện tim – một tác dụng phụ có thể dẫn đếnloạn nhịp tim nghiêm trọng. Fexofenadin có phạm vi an toàn rộng hơn đa số cácthuốc kháng histamin khá ...