Danh mục

Việt Nam Sử Lược phần 11

Số trang: 27      Loại file: pdf      Dung lượng: 253.47 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 18,000 VND Tải xuống file đầy đủ (27 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việt Nam Sử LượcThuộc Nhà Minh (1414 - 1427) 1. Việc chính trị nhà Minh 2. Việc tế tự 3. Cách ăn mặc 4. Sự học hành 5. Việc trạm dịch 6. Việc binh lính 7. Phép hộ thiếp và hoàng sách 8. Việc thuế má 9. Việc sưu dịch 10. Quan lại 1. Việc Chính Trị Nhà Minh. Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân Bình rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Việt Nam Sử Lược phần 11Việt Nam Sử LượcThuộc Nhà Minh (1414 - 1427)1. Việc chính trị nhà Minh2. Việc tế tự3. Cách ăn mặc4. Sự học hành5. Việc trạm dịch6. Việc binh lính7. Phép hộ thiếp và hoàng sách8. Việc thuế má9. Việc sưu dịch10. Quan lại1. Việc Chính Trị Nhà Minh.Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân Bình rồi, làm sổ biên số dânđinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giớinước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm Giáp Ngọ (1414) Trương Phụ và MộcThạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất nhiều.Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Namđồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bênTàu, rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàucả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu hếtsạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờphải nhiều điều khổ nhục2. Việc Tế Tự.Hoàng Phúc bắt các phủ, châu, huyện phải lập văn miếu và lập bàn thờ bách thần,xã tắc, sơn xuyên, phong vân để bốn mùa tế tự.3. Cách Ăn Mặc.Bắt con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái thì phải mặt áo ngắn quầndài theo như người Tàu cả.4. Sự Học Hành.Quan nhà Minh bắt mở nhà học ở các phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âmdương, thầy thuốc, thầy chùa, đạo sĩ, ai giỏi nghề gì thì làm cho quan để dạy nghềấy.Vua nhà Minh lại xuống chỉ truyền lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính Lý ĐạiToàn, sai quan đưa sang ban cấp cho người An Nam học ở các châu huyện, rồi lạisai thầy tăng và đạo sĩ ở Tăng Đạo Ty (1), đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lão.Còn bao nhiêu sách vở của nước Nam, từ nhà Trần về trước thì thu lấy cả rồi đemvề Kim Lăng.Cứ theo sách Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí của ông Phan Huy Chú thìnhững sách của nước Nam mà Tàu lấy về là những sách này:- Hình Thư, của vua Thái Tông nhà Lý3 quyển. - Quốc Triều Thông Lễ, của vua Thái Tông nhà Trần 10 quyển - HìnhLuật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển - Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung10 quyển - Khóa Hư Tập1 quyển - Ngự Thi1 quyển - Di Hậu Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển - Cơ Cầu Lục1 quyển - Thi Tập1 quyển - Trung Hưng Thực Lục, của Trần Nhân Tông2 quyển - Thi Tập1 quyển - Thủy Vân Tùy Bút, của Trần Anh Tông2 quyển - Thi Tập, của Trần Minh Tông1 quyển - Trần Triều Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển - Bảo Hòa Điện DưBút, của Trần Nghệ Tông8 quyển - Thi Tập1 quyển - Binh Gia Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Vạn Kiếp Bí Truyền,của Trần Hưng Đạo 1 bộ - Tứ Thư Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ - TiềuẨn Thi1 tập - Sầm Lâu Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại 1 quyển - Lạc Đạo Tập,của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải 1 quyển - Băng Hồ Ngọc Hác Tập, củaTrần Nguyên Đán 1 quyển - Giới Hiên Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển- Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh1 quyển - Cúc Đường Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển, Thảo Nhàn HiệuTần, của Hồ Tôn Vụ1 quyển - Việt Nam Thế Chí1 bộ - Việt Sử Cương Mục1 bộ - Đại Việt Sử Ký, của Lê Văn Hưu 30 quyển - Nhị Khê Thi Tập, của NguyễnPhi Khanh1 quyển - Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên1 quyển - Việt Điện U Linh Tập, của Lý Tế Xuyên 1 quyểnNhững sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật làmột cái thiệt hại cho người nước mình.Còn những người đi học, ở các phủ, châu, huyện, trước thì ở phủ mỗi năm 2người, ở châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗinăm 1 người, ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2 năm 1 người, được làm học trò tuếcống cho vào học Quốc Tử Giám, rồi bổ đi làm quan.5. Việc Trạm Dịch.Từ thành Đông Quan (tức là Hà Nội) cho đến huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn, thì đặttrạm để chạy giấy bằng ngựa; từ huyện Chí Linh, huyện Đông Triều cho đến phủVạn Ninh là nơi giáp đất Khâm Châu nước Tàu thì đặt trạm chạy giấy bằngthuyền.6. Việc Binh Lính.Việc bắt lính thì cứ theo sổ bộ mà bắt. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi một bộphải ba suất đinh đi lính, nhưng từ Thanh Hóa về nam người ở ít, thì mỗi hộ chỉphải hai suất đinh đi lính mà thôi. Những chỗ nào mà không có vệ sở thì lập đồn ởchỗ hiểm yếu rồi lấy dân binh ra giữ.7. Phép Hộ Thiếp và Hoàng Sách.Việc điền hộ ở An Nam bấy giờ phải theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trongnước, thì ai cũng phải có một cái giấy biên tên tuổi và hương quán để lúc nào cókhám hỏi thì phải đưa ra. Cái giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ.Hễ giấy của ai mà không hợp như ở trong sổ thì người ấy phải bắt đi lính.Việc cai trị ở trong nước thì chia ra làm lý và giáp. Ở chỗ thành phố thì gọi làphường; ở chung quanh thành phố thì gọi là tương; ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lạichia ra giáp.Cứ 110 hộ làm một lý và 10 hộ làm một giáp. Lý thì có lý trưởng, giáp thì có giápthủ.Mỗi một năm có người làm lý trưởng coi việc trong lý.Mỗi một lý, một phường hay là một tương có một quyển sách để biên tất cả sốđinh số ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: