Danh mục

Việt Nam Sử Lược phần 20

Số trang: 25      Loại file: pdf      Dung lượng: 225.91 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việt Nam Sử LượcCận Kim Thời Đại Nhà Nguyễn (1802 - 1945) Thế Tổ (1802 - 1819) Niên hiệu: Gia Long 1. Thế Tổ xưng đế hiệu 2. Việc triều chính 3. Binh chế 4. Việc tài chánh 5. Công vụ 6. Pháp luật 7. Việc học hành 8. Việc giao thiệp với nước Tàu 9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La 10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao 11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây 12. Sự giết hại công thần 13. Xét công việc của vua Thái Tổ 1. Thế...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Việt Nam Sử Lược phần 20Việt Nam Sử LượcCận Kim Thời ĐạiNhà Nguyễn (1802 - 1945)Thế Tổ (1802 - 1819)Niên hiệu: Gia Long1. Thế Tổ xưng đế hiệu2. Việc triều chính3. Binh chế4. Việc tài chánh5. Công vụ6. Pháp luật7. Việc học hành8. Việc giao thiệp với nước Tàu9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây12. Sự giết hại công thần13. Xét công việc của vua Thái Tổ1. Thế Tổ xưng đế hiệu.Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm Mậu Tuất(1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũcủa chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹpxong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở PhúXuân, tức là thành Huế bây giờ.Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế,và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con cháu nhà Lê, nhàTrịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờphụng tổ tiên.Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn VănThành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ,tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm VănĐăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.Đến tháng bảy năm Nhâm Tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơnvề làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quậtmả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi,còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục tối.Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng,đem nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệmvì trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, ĐặngTrần Thường sai người đánh chết.Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền CầnChính để lập thường triều, điện Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xâythành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn.Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đếnnăm Giáp Tý (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sangphong vương, và đến năm Bính Dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đềnThái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngàymồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại,việc gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọiviệc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phậtmà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ởngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiếncho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.2. Việc Triều Chính.Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và cáccung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng TháiHậu.Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng vàBồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả.Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùngcác thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại,v.v.....Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng,phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàngquan lại v.v....Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóavật đắt rẻ v.v...Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thicử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thầnnhân v.v.....Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thúhoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặngán ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặtlàm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan.Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy.Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàubè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.Các địa phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. TừThanh Hóa ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc,và Hải Dương ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: