Việt Nam sử lược phần 9
Số trang: 21
Loại file: pdf
Dung lượng: 209.82 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việt Nam Sử LượcNhà Trần Thời Kỳ Thứ Hai (1293 - 1341) I. Trần Anh Tông 1. Đức Độ Vua Anh Tông 2. Trần Hưng Đạo Vương mất 3. Việc Đánh Ai Lao 4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành II. Trần Minh Tông III. Trần Hiến Tông 1. Giặc Ngưu Hống 2. Giặc Ai Lao I. Trần Anh Tông (1293-1314) Niên-hiệu: Hưng Long 1. Đức Độ Vua Anh Tông. Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là vua Anh Tông. Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Việt Nam sử lược phần 9Việt Nam Sử LượcNhà Trần Thời Kỳ Thứ Hai (1293 - 1341)I. Trần Anh Tông1. Đức Độ Vua Anh Tông2. Trần Hưng Đạo Vương mất3. Việc Đánh Ai Lao4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm ThànhII. Trần Minh TôngIII. Trần Hiến Tông1. Giặc Ngưu Hống2. Giặc Ai LaoI. Trần Anh Tông (1293-1314)Niên-hiệu: Hưng Long1. Đức Độ Vua Anh Tông.Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là vua Anh Tông.Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khibị đồ vô lại phạm đến.Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng Hoàng ở Thiên Trường vềkinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm,truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hộinghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh, sợ hãi quá, vội vàngchạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bàibiểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủThiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho AnhTông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từđấy không uống rượu nữa. Từ xưa đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽrồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục này. Một hôm ThượngHoàng bảo Anh Tông rằng: Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngàyxưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được. Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừakhi Thượng Hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua An Nam mớikhông vẽ mình nữa.Tính vua Anh Tông hay vẽ: thường có làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đếnlúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng,hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi màbảo rằng: Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết. Xem thế thì biết AnhTông là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấygiờ có cương kỷ lắm.Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như bọn ôngTrương Hán Siêu, võ như ông Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương (1) , trướctheo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc Nguyên, lập được công to. Triều đình trọngdụng cho làm đại tướng. Ngũ Lão trị quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu như ngườinhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chibinh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.Ông Phạm Ngũ Lão đã giỏi nghề võ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuậthoài sau này:Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thuTam quân tỳ hổ khí thôn ngưuNam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.Bài này có người dịch ra nôm như sau:Ngọn giáo non sông trải mấy thâuBa quân hùng hổ khí thôn ngưuCông danh nếu để còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầuThời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh,chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên nhữngngười có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đềuđược thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thật là một thời rất thịnh về đời nhàTrần vậy.2. Trần Hưng Đạo Vương mất.Trong đời vua Anh Tông có mấy người danh tướng như là: Thượng Tướng TrầnQuang Khải, thắng trận Chương Dương ngày trước, mất năm Giáp Ngọ (1294), vàHưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mất ngày 20 tháng tám năm Canh Tý (1300).Hưng Đạo Vương là một danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên cócông to với nước, được phong làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Quốc Công,Bình Bắc Đại Nguyên Súy, Hưng Đạo Đại Vương. Vua lại sai người về Vạn Kiếplàm sinh từ để thờ ngài ở chỗ dinh cũ của ngày đóng ngày trước.Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp.Khi ngài sắp mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhận thấy ngài bệnh nặng,mới hỏi rằng: Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làmthế nào?Hưng Đạo Vương tâu rằng: Nước ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp,Hán Đế đem binh đến đánh, Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lươngthảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánhquận Tràng Sa (2) dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh,Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồnglòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thànhBình Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đờinhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm,dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bảntriều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh emhòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trờigiúp ta mới được thế.Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhauvới tràng, phép dùng binh thường vẫn phải như thế. Còn như khi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Việt Nam sử lược phần 9Việt Nam Sử LượcNhà Trần Thời Kỳ Thứ Hai (1293 - 1341)I. Trần Anh Tông1. Đức Độ Vua Anh Tông2. Trần Hưng Đạo Vương mất3. Việc Đánh Ai Lao4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm ThànhII. Trần Minh TôngIII. Trần Hiến Tông1. Giặc Ngưu Hống2. Giặc Ai LaoI. Trần Anh Tông (1293-1314)Niên-hiệu: Hưng Long1. Đức Độ Vua Anh Tông.Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là vua Anh Tông.Anh Tông lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khibị đồ vô lại phạm đến.Một hôm uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng Hoàng ở Thiên Trường vềkinh, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm,truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hộinghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh, sợ hãi quá, vội vàngchạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bàibiểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủThiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho AnhTông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từđấy không uống rượu nữa. Từ xưa đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽrồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục này. Một hôm ThượngHoàng bảo Anh Tông rằng: Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngàyxưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được. Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừakhi Thượng Hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua An Nam mớikhông vẽ mình nữa.Tính vua Anh Tông hay vẽ: thường có làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đếnlúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng,hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi màbảo rằng: Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết. Xem thế thì biết AnhTông là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời bấygiờ có cương kỷ lắm.Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như bọn ôngTrương Hán Siêu, võ như ông Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương (1) , trướctheo Trần Hưng Đạo Vương đánh giặc Nguyên, lập được công to. Triều đình trọngdụng cho làm đại tướng. Ngũ Lão trị quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu như ngườinhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy là phụ tử chibinh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.Ông Phạm Ngũ Lão đã giỏi nghề võ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuậthoài sau này:Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thuTam quân tỳ hổ khí thôn ngưuNam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.Bài này có người dịch ra nôm như sau:Ngọn giáo non sông trải mấy thâuBa quân hùng hổ khí thôn ngưuCông danh nếu để còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầuThời bấy giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh,chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên nhữngngười có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đềuđược thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thật là một thời rất thịnh về đời nhàTrần vậy.2. Trần Hưng Đạo Vương mất.Trong đời vua Anh Tông có mấy người danh tướng như là: Thượng Tướng TrầnQuang Khải, thắng trận Chương Dương ngày trước, mất năm Giáp Ngọ (1294), vàHưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mất ngày 20 tháng tám năm Canh Tý (1300).Hưng Đạo Vương là một danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên cócông to với nước, được phong làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Quốc Công,Bình Bắc Đại Nguyên Súy, Hưng Đạo Đại Vương. Vua lại sai người về Vạn Kiếplàm sinh từ để thờ ngài ở chỗ dinh cũ của ngày đóng ngày trước.Hưng Đạo Vương làm quan đến đời vua Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp.Khi ngài sắp mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhận thấy ngài bệnh nặng,mới hỏi rằng: Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làmthế nào?Hưng Đạo Vương tâu rằng: Nước ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp,Hán Đế đem binh đến đánh, Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lươngthảo cho giặc chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánhquận Tràng Sa (2) dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh,Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồnglòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thànhBình Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đờinhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm,dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bảntriều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh emhòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trờigiúp ta mới được thế.Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhauvới tràng, phép dùng binh thường vẫn phải như thế. Còn như khi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khoa học xã hội lịch sử văn hóa Lịch sử Việt Nam Việt Nam sử lược phần 9Gợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 260 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 254 0 0 -
4 trang 212 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 206 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
Tiểu luận: Xã hội học chính trị - xã hội học dân sự
15 trang 126 0 0 -
TIỂU LUẬN: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX
40 trang 114 0 0 -
Báo cáo Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh và những nỗ lực thâm nhập phương Đông trong thế kỷ XVII.
9 trang 103 0 0 -
4 trang 81 0 0
-
69 trang 80 0 0