Danh mục

VUA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HÒA BÌNH THỜI HẬU CHIẾN - 1

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 137.31 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

VUA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HÒA BÌNH THỜI HẬU CHIẾN - 1Khi quân và dân ta đang tưng bừng ăn mừng chiến thắng ở thủ đô Thăng Long, thì tại Đại Đô, Hốt Tất Liệt đang thi hành những biện pháp trừng phạt đối với đám bại tướng của đạo quân xâm lược đã tháo chạy và sống sót trở về. Hắn đày Thoát Hoan ra Dương Châu và cấm suốt đời không được gặp mặt hắn, còn Áo Lỗ Xích bị đuổi ra Giang Tây, như Nguyên sử 117 tờ 5a1-2 và 131 tờ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VUA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HÒA BÌNH THỜI HẬU CHIẾN - 1 VUA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HÒA BÌNH THỜI HẬU CHIẾN 1Khi quân và dân ta đang tưng bừng ăn mừng chiến thắng ở thủ đô Thăng Long, thìtại Đại Đô, Hốt Tất Liệt đang thi hành những biện pháp trừng phạt đối với đám bạitướng của đạo quân xâm lược đã tháo chạy và sống sót trở về. Hắn đày ThoátHoan ra Dương Châu và cấm suốt đời không được gặp mặt hắn, còn Áo Lỗ Xíchbị đuổi ra Giang Tây, nh ư Nguyên sử 117 tờ 5a1-2 và 131 tờ 7a9 đã ghi nhận. Vềphía ta, vua Trần Nhân Tông đang chuẩn bị một mặt trận n goại giao để đối phóvới ý đồ xâm lược của triều đìnhử Nguyên, đồng thời tiến hành thực hiện một sốbiện pháp để xây dựng lại đất nước, sau khi đã bị chiến tranh tàn phá nhằm củngcố tiềm lực quốc gia cho mọi biến động có thể xảy ra.Biện pháp thứ nhất là công bố đại xá cho cả nước và tha tô thuế tạp dịch chonhững vùng đã trải qua chiến tranh, còn miễn và giảm cho các vùng khác nhưĐVSKTT 5 tờ 55a1-3 viết: “Tháng tư mùa hạ (năm Mậu Tý, 1288) Thượng hoàngngự ở hành lang thị vệ (vì cung điện thời bấy giờ bị giặc đốt hết) đại xá thiên hạ.Phàm những nơi nào từng bị binh lửa cướp phá thì miễn tô thuế và tạp dịch toànphần, còn chỗ khác thì tha hoặc miễn theo thứ bậc khác nhau”. Rõ ràng đất nướcđã kinh qua chiến tranh và bây giờ phải tập trung mọi nỗ lực để xây dựng lạinhững gì đã bị quân thù đốt phá. Miễn giảm tô thuế và tạp dịch là nhằm mục đíchđó. Và biện pháp này thực hiện mấy ngày sau khi vua Trần Nhân Tông và Thượnghoàng trở về kinh đô Thăng Long hôm 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288).Cũng vào đợt tuyên đọc lệnh đại xá của vua Trần Nhân Tông này, ĐVSKTT 5 tờ55a3 -b5 đã dành một đoạn văn dài để ghi lại một sự cố trong việc đọc chiếu chỉấy. Qua sự cố đo,ữ ta được biết thêm nhiều chuyện liên quan đến lịch sử, văn hóavà xã hội của đất nước. Sự cố đó như sau: “Vua bảo ty hành khiển giao hảo vớiviện hàn lâm. Theo lệ cũ, hễ đọc lời vua nói th ì viện hàn lâm đưa trước bản thảo tờchiếu cho ty hành khiển bảo tập đọc tr ước. Đến khi tuyên đọc thì gồm giảng cả âmlẫn nghĩa khiến cho dân th ường dễ hiểu, vì chức hành khiển chỉ dùng hoạn quanthôi. Bấy giờ Lê Tòng Giáo làm tả phụ, cùng hàn lâm phụng chỉ Đinh Cũng Viênvốn không thích nhau. Ngày đọc lời vua đã tới gần, mà Cũng Viên cố ý không đưabản thảo. Tòng Giáo nhiều lần đến đòi rốt cuộc cũng không được. Hôm ấy xe vuasắp ra ngoài cung, Cũng Viên mới đưa bản thảo. Tòng Giáo tuyên đọc lệnh đại xá,không hiểu âm nghĩa, bèn đứng im, vua gọi Cũng Viên đứng đằng sau nhắc bảoâm nghĩa. Tòng Giáo có ý thẹn. Cũng Viên nhắc bảo tiếng càng to, mà tiếng TòngGiáo thì lại nhỏ dần. Trong triều chỉ nghe tiếng Cũng Viên. Khi vua trở về nộiđiện, cho gọi Tòng Giáo vào: ‘Cũng Viên là người văn học, còn ngươi là mộttrung quan, sao không thích nhau đến nỗi như thế. Ngươi làm lưu thủ ThiênTrường, tôm đất quýt vàng đem tặng qua lại cho nhau, thì có hại gì đâu’. Từ đóTòng Giáo và Cũng Viên giao hảo với nhau càng thêm thân mật”.Qua sự cố nhắc bài giữa triều đình này, ta biết vào thời Trần và chắc chắn là trướcnăm 1288 đã có lệnh là phải đọc chiếu chỉ của vua bằng cả hai thứ tiếng, tiếng Hánvà tiếng Việt. ĐVSKTT chỉ ghi sự kiện đọc chiếu chỉ của vua bằng hai thứ tiếngđây là một việc cũ (cố sự). Điều này có nghĩa việc đọc bằng hai thứ tiếng này có từlâu, nhưng lâu từ lúc nào, ĐVSKTT không cho ta biết. Có thể có từ thời Lýchăng? Thậm chí có thể có từ thời Đinh, Lê chăng? Đây là một có thể. Bởi vì cácvua Đinh Lê như chính ĐVSKTT ghi lại, không phải là những người có học nhiều.Các vua thời Lý khá hơn, học hành đầy đủ hơn. Song đọc chiếu chỉ của vua thìđâu phải chỉ để cho vua nghe, mà chủ yếu là cho quần thần và dân dã. Và số quầnthần và dân chúng Đại Việt vào các triều đại ấy và ngay cả các triều đại về sau nàyphần lớn đều không biết chữ Hán, hoặc có biết chăng, thì họ cũng chỉ biết lõmbõm đủ cho việc ký giấy tờ.Do thế, ta có thể mạnh dạn đề xuất ý kiến cho rằng trong lịch sử dân tộc, tiếngViệt từ lâu vẫn là một ngôn ngữ hành chính ở một mức độ nào đó, dẫu rằng số tàiliệu của các mệnh lệnh h ành chánh này đã bị thất lạc hầu như gần hết, chỉ trừ mộtsố rất ít các văn kiện nh ư văn tế Nguyễn Biểu của Trần Trùng Quang, hay lời hộithề Lam Sơn của Lê Lợi, hay hịch đánh quân Thanh của vua Quang Trung và mộtsố văn kiện lẻ tẻ khác. Nói cách khác, tiếng Việt có một vị trí nào đó trong đờisống chính trị Việt Nam nh ư một ngôn ngữ chính thức của triều đình, chứ khôngphải chúng không bao giờ được dùng tới. Chỉ có vấn đề là khó và dễ học, mà saunày thiền sư Pháp Tính (1470-1550 ?) đã đặt ra trong Chỉ nam ngọc âm giảinghĩa.Thiền sư Pháp Tính đã nói tới tình trạng chữ viết tiếng Việt ta thời ông vàtrước đó, tức từ nửa đầu thế kỷ thứ 15 trở về tr ước, phần lớn gồm những chữ “nômxe chữ kép”:Xưa đặt nôm xe chữ kép Người thiểu học khôn biết khôn xem Chonên Pháp Tính mới chủ trương, phải thiết định ...

Tài liệu được xem nhiều: