Nội dung bài viết "Xã hội học thực nghiệm: Hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ sở nông thôn, vấn đề và triển vọng qua một số nghiên cứu điền dã" giới thiệu đến các bạn thực trạng, chính sách, hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ sở nông thôn qua một số nghiên cứu điền dã. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn chuyên ngành Xã hội học, mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xã hội học thực nghiệm: Hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ sở nông thôn, vấn đề và triển vọng qua một số nghiên cứu điền dã - Phạm Bích SanXã hội học, số 2 - 199326 XÃ HỘI HỌC THỰC NGHIỆMHệ chăm sóc sức khỏe cơ sở nông thôn: vấn đềvà triển vọng qua một cuộc nghiên cứu điền dã PHẠM BÍCH SAN C ó một hiện tượng thường vẫn xảy ra trong thực tế của đời sống xã hội: Một hệ thống được lập ra và đáp ứng tốt các yêu cầu của xã hội, đến một lúc nào đó không làm được điều đó. Và sẽ có khả năng đểgiải quyết vấn đề xuất hiện: Một là tìm ra các điểm yếu để hoàn thiện tiếp tục hệ thống và, hai là thay đổi về cănbản về hệ thống để có thể đáp ứng được các nhu cầu của ngày hôm nay. Ở một chừng mực nào đó tình hình nàyđang diễn ra trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Việt Nam ngày hôm nay, khi mà hệ thống chăm sóc sứckhỏe, đặc biệt là ở cấp cơ sở khu vực nông thôn, đang gặp nhiều thách thức trong việc đảm bảo sức khỏe trongnhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu xã hội cơ bản về hệ thống chăm sóc sức khỏe vẫn còn ít ỏi và,do vậy, một sự đóng góp nào đó của khoa học xã hội cho giải pháp chăm sóc sức khỏe vẫn còn hạn chế. Trong những điều kiện không xác định như vậy nhiều tổ chức khác nhau khi đầu tư vào hệ thống như thế đãcố gắng tìm hiểu thực trạng của hệ thống y tế Việt Nam và thử nghiệm các giải pháp khác nhau trong một thờigian xác định. Trong khuôn khổ chương trình hợp tác với tổ chức Tầm nhìn thế giới, Sở Y tế Quảng Nam - ĐàNẵng đã triển khai vào tháng 4/1992 một cuộc nghiên cứu cơ bản tại hai huyện Tiên Phước và Trà Mi trên địabàn 14 xa (7 ở Tiên Phước và 7 ở Trà Mi), với kích thước mẫu là 800 hộ ở mỗi huyện. Kết quả cuộc khảo sátcho phép chúng ta có những ý niệm ban đầu về hoạt động của hệ thống chăm sóc sức khỏe cấp cơ sở tại một khuvực trung du và một khu vực miền núi. Nhóm các biến số độc lập và chỉ báo được chọn để phân tích ở đây chủyếu gồm: 1) Khu vực sinh sống (trung du 1 miền núi); 2) Dân tộc kinh (kinh 1 thiểu số); 3) Mức đủ ăn (thiếu ăntrên 2 tháng, thiếu ăn dưới 2 tháng, đủ ăn). Trên căn bản 3 biến số độc lập đó việc phân tích các hoạt động chămsóc sức khỏe khác nhau cấp cơ sở nông thôn được tiến hành vào thời điểm diễn ra cuộc nghiên cứu, 14,2% dânsố trong 2 tuần vừa qua bị bệnh, với 452 hộ và 765 người ở Trà Mi, 337 hộ và 443 người ở Tiên Phước trên mộttổng lượng mẫu 1571 hộ ở cả 2 huyện. Mức độ bệnh tật ở Trà Mi thoạt nhìn đã thấy cao hơn Tiên Phước rấtnhiều. Điều này có nguyên nhân cả do điều kiện môi trường xung quanh của khu vực Trà Mi, khả năng thíchứng với điều kiện tại chỗ của những người mới di cư lên cũng như những khó khăn trong việc triển khai hệthống chăm sóc sức khỏe ở cấp cơ sở. Sự phân bố theo số người trong hộ gia đình có bệnh như sau: Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn Xã hội học, số 2 - 1993 Phạm Bích San 27 Bảng 1: Tỷ lệ hộ gia đình theo số người ốm, theo khu vực và dân tộc (%) TràMi Tiên Phước Chung Kinh Thiểu số Chung Không ai ốm 75,6 45,3 32,0 41,9 49,9 Một người 31,0 32,1 29,5 21,4 31,2 Hai người 9,9 14,1 23,5 16,8 13,3 Ba người 1,1 5,7 10,0 6,8 3,9 Bốn người 0,4 1,9 4,0 2,4 1,4 Năm người 0,0 0,5 1,0 0,6 0,3 Tổng cộng 100 100 100 100 Bảng 1a: Tỷ lệ hộ gia đình theo số người ốm, theo mức đủ ăn (%) >2 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng ...