Danh mục

Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước

Số trang: 12      Loại file: doc      Dung lượng: 144.50 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 6,000 VND Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Dưới đây là tài liệu Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. Tài liệu trình bày về khái niệm về mua bán nợ; xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. Mời các bạn tham khảo tài liệu để bổ sung thêm kiến thức về lĩnh vực này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. 1. Khái niệm về mua bán nợ: Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần  tài sản đặc biệt là các khoản nợ phải thu từ đối tượng này sang đối  tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại quyền thu hồi nợ  từ một khoản nợ phải thu của Bên bán nợ (chủ nợ) đối với Khách nợ  sang cho Bên mua nợ (ví dụ như DATC) để Bên mua nợ trở thành chủ nợ  mới của Bên Khách nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện  đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải  trả (của bên khách nợ).   Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có khoản nợ phải thu 1000$ đối với Bên B  (khách nợ) do phát sinh trong một quan hệ kinh tế giữa 2 bên. Đến nay,  Bên A cần thu hồi phần tài sản này để đầu tư vào một dự án khác nhưng  Bên B chưa thanh toán được do khó khăn về tài chính hoặc khoản nợ chưa  đến hạn. Và Bên A bán khoản nợ phải thu này cho DATC với giá 1000$,  đồng thời chuyển giao toàn bộ quyền thu hồi nợ cho DATC để DATC  trở thành chủ nợ mới của Bên B và khi đó Bên B có trách nhiệm thanh  toán 1000$ cho DATC mà không phải thanh toán cho Bên A nữa.  • DATC: Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Doanh nghiệp)  thuộc Bộ tài chính.  • VAMC: Công ty Quản lý và khai thác tài sản Việt Nam. 2. Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước.    Trong thời lỳ khủng hoảng tài chính Châu Á những năm 1997 – 1998,  phần lớn các nước Đông Á đã lập các Công ty Quản lý tài sản (AMC) trực  thuộc Nhà nước nhằm thanh lý nợ xấu đồng thời với thực hiện tái cấu  trúc hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.    Chính phủ các nước Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành  lập các công ty quản lý tài sản tập trung (AMCs) để xử lý nợ, thu hồi và  cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Cụ thể: Indonesia thiết lập  Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng (IBRA), với Malaysia là Tổ chức xử lý nợ  quốc gia (DANAHARTA), Hàn Quốc lập Công ty Quản lý Tài sản  (KAMCO). Riêng Thái Lan ban đầu chỉ thành lập Cơ quan tái cấu trúc tài  chính (FRA) để xử lý các vấn đề của các công ty tài chính và đến năm  2001, Thái Lan mới thành lập Công ty Quản lý Tài sản (TAMC). Các công  ty này chỉ hoạt động trong một số năm nhất định.   ­ Đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ nói trên là được Chính phủ tài  trợ vốn và tổ chức tập trung hơn việc sử dụng một mô hình chỉ dựa vào  ngân hàng. Điều này có lẽ là do tính chất đặc thù có hệ thống về các vấn  đề ngân hàng và quy mô nợ xấu.   ­ Chính phủ các nước nói trên áp dụng hình thức mua sỉ tất cả các khoản  cho vay có vấn đề và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng.    Mô hình AMCs mang tính khả thi cao do nhiều ngân hàng không đủ  nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu của mình thông qua các  đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, cơ sở pháp  lý so với các chuẩn mực thế giới ở các nước này vẫn còn lạc hậu cũng  góp phần tạo ra sự cần thiết phải có AMCs.    (1) Malayxia: Các công ty xử lý nợ tập trung cũng có các quyền hạn đặc  biệt để cắt giảm các thủ tục pháp lý. Ví dụ, Tổ chức xử lý nợ quốc gia  Malaysia có quyền xử lý tất cả các khoản nợ xấu chuyển giao mà không  cần phải xin phép các chủ tài sản. TAMC của Thái Lan cũng sử dụng  quyền hạn của mình để buộc các con nợ phải ngồi vào bàn đàm phán cho  việc thanh toán các khoản nợ vay của mình…    (2)  Hàn Quốc: nước bị khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong những  năm 1997­1998, vai trò tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn  kinh tế (Chaebol) trong quá trình giải quyết một danh mục nợ xấu lớn là  rất rõ ràng, cho dù nhiệm vụ mấu chốt được đề ra ngay từ khi AMC được  thành lập là giải quyết nợ xấu càng sớm càng tốt.    (3) Indonesia: IBRA của Indonesia được thành lập ngay năm 1998 với  mục tiêu ban đầu là tập trung hơn vào tái cấu trúc doanh nghiệp. Tuy  nhiên, trước áp lực phải nhanh chóng thanh lý các khoản nợ xấu để tài trợ  cho một ngân sách ngày càng bị thâm hụt, Công ty IBRA đã phải bán các  khoản nợ xấu chưa được tái cấu trúc kể từ đầu năm 2002.    (4) Trung Quốc, sau 4 năm giành rất nhiều thời gian và nguồn lực cho  việc tái cấu trúc hàng trăm doanh nghiệp Nhà nước cỡ lớn (chiếm khoảng  1/3 tổng giá trị các khoản nợ xấu được 4 công ty quản lý tài sản mua) chủ  yếu thông qua nghiệp vụ biến các khoản nợ thành cổ phần tại các doanh  nghiệp này, 4 AMC của Trung Quốc sau đó đã tập trung hơn vào việc bán  và thanh lý các khoản nợ xấu thông qua các công cụ khác nhau...     (5) Thái Lan: Cũng như các nước Đông Nam Á khác, Thái Lan thực  hiện xử lý nợ xấu bằng 03 giải pháp cơ bản.     Các giải pháp này bao gồm bơm vốn trực tiếp, công ty quản lý tài sản  AMC (Asset Management Company) và trung gian tái cơ cấu nợ CDRC  (Corporate Debt Restructuring Committee), trong đó AMC là một trong  những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng  hoảng cho đến nay.   ­ Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã gây nhiều tác động nặng  nề lên hệ thống tài chính ở Thái Lan, đặc biệt là khu vực ngân hàng. Nợ  xấu của khu vực ngân hàng liên tục gia tăng, cuối năm 1997 đạt mức cao  kỷ lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng đã tạo áp lực cho Chính phủ phải  nhanh chóng đưa ra những giải pháp kịp thời kiểm soát vấn đề này.   ­ Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC có thể chia  thành 02 thời kỳ: phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự  tham gia của cả AMC sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi Quỹ Phát triển các  Định chế tài chính­FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được  áp dụng lần lượt năm 1998 và 1999; còn mô hình AMC tập trung dựa trên  sự thành lập của Công ty quản lý tài sản Thái Lan (Thai Asset  Management Corporation – TAMC) vào năm 2001. Ba cơ chế AMC có  nhiều điểm khác nhau ở nguồn gốc tổ chức, điều khoản và điều kiện các  tài sản chuyển giao (xem Bảng 1). Thái Lan chỉ thực sự giải quyết nợ xấu  thành công theo mô hình AMC tập trung áp dụng trong giai đoạn sau  khủng hoảng. Bảng 1: Đặc điểm  ...

Tài liệu được xem nhiều: