Ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô (Gracilaria asiatica) lên quá trình tăng trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng thịt của bào ngư (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) nuôi tại Bạch Long Vỹ - Hải Phòng
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 617.11 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu khả năng sử dụng rong câu chỉ vàng khô làm thức để nuôi bào ngư, nhằm chủ động nguồn thức ăn đảm bảo về số lượng và chất lượng, góp phần phát triển nghề nuôi bào ngư thương phẩm tại huyện đảo Bạch Long Vỹ. Sau 166 ngày nuôi thương phẩm bằng lồng trên biển, có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tăng trưởng chiều dài và khối lượng của bào ngư ở các nghiệm thức thức ăn khác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô (Gracilaria asiatica) lên quá trình tăng trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng thịt của bào ngư (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) nuôi tại Bạch Long Vỹ - Hải PhòngTạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnSố 2/2014KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏCẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN RONG CÂU CHỈ VÀNG KHÔ(Gracilaria asiatica) LÊN QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNGVÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA BÀO NGƯ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846)NUÔI TẠI BẠCH LONG VỸ - HẢI PHÒNGEFFECTS OF DRY SEAWEED (Gracilaria asiatica) AS FOOD ON GROWTH RATE,SURVIVAL RATE AND MEAT QUALITY OF ABALONE (Haliotis diversicolor Reeve, 1846)CULTURE AT BACH LONG VY - HAI PHONGVõ Hồng Phương1, Lục Minh Diệp2Ngày nhận bài: 03/9/2013; Ngày phản biện thông qua: 27/9/2013; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014TÓM TẮTBài báo trình bày kết quả nghiên cứu khả năng sử dụng rong câu chỉ vàng khô làm thức để nuôi bào ngư, nhằm chủđộng nguồn thức ăn đảm bảo về số lượng và chất lượng, góp phần phát triển nghề nuôi bào ngư thương phẩm tại huyệnđảo Bạch Long Vỹ. Sau 166 ngày nuôi thương phẩm bằng lồng trên biển, có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tăng trưởngchiều dài và khối lượng của bào ngư ở các nghiệm thức thức ăn khác nhau. Bào ngư tăng trưởng cao nhất về chiều dài(42,80 ± 0,040 mm) và khối lượng (38,0 0 ± 0,043 g) ở nghiệm thức sử dụng thức ăn phối hợp là 25% rong câu khô + 75%rong tươi và tăng trưởng thấp nhất (41,90 ± 0,066 mm và 35,60 ± 0,044 g) khi sử dụng hoàn toàn rong câu chỉ vàng khôlàm thức ăn. Tỷ lệ sống của bào ngư đạt cao nhất (94,7%) khi nuôi bằng rong tươi, sau đó giảm dần theo mức độ tăng củatỷ lệ rong khô trong khẩu phần thức ăn và đạt thấp nhất (83,3%) khi cho ăn hoàn toàn bằng rong câu chỉ vàng. Tuy nhiên,tỷ lệ thịt/vỏ của bào ngư khi nuôi bằng rong câu chỉ vàng khô là 51%, cao hơn so với nghiệm thức cho ăn bằng rong tươi(45%), song không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về hàm lượng các chất dinh dưỡng và thành phần axít amin.Từ khóa: bào ngư, Haliotis diversicolor, rong câu chỉ vàng, Gracilaria asiaticaABSTRACTThis paper presents results on research of utilization ability of dry seaweed food for abalone culture as well asproviding a stable food source with high quality and quanlity which contributes to develop abalone grow-out culture farmin Bach Long Vy Island. After 166 days of grow-out culture in sea-cages, there was a significant difference in growth rate(length and weight) of abalone in different experiments. The growth rate of abalone in length (42.80 ± 0.040 mm) andweight (38.00 ± 0.043 g) was highest when fed 75% fresh seaweed + 25% dry seaweed and these figures were lowest inexperiment that used 100% of dry seaweed as food (41.90 ± 0.066 mm and 35.60 ± 0.044 g, respectively). The survivalrate of abalone was highest value of 94.7% when fed fresh seaweed, after that it decreased with increasing of dry seaweedratio and reached lowest value of 83.3% when fed dry seaweed. However, the meat/shell ratio of abalone fed dry seaweed(51%) was higher than those fed fresh seaweed (45%), but there was no significant difference in nutrient and amino acidcomposition of meat.Keyword: Abalone, Haliotis diversicolor, dry seaweed, Gracilaria asiaticaI. ĐẶT VẤN ĐỀBào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) là loàiđộng vật chân bụng có phân bố chính tại vùng biểncủa đảo Bạch Long Vỹ, từ lâu đã được biết đến như12là loại hải đặc sản bổ dưỡng, có giá trị kinh tế cao vàđược sử dụng như là vị thuốc tự nhiên quý hiếm [1].Tuy nhiên, do khai thác quá mức nên nguồn lợibào ngư đã bị giảm sút nghiêm trọng. Hiện nay,Võ Hồng Phương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2010 - Trường Đại học Nha TrangTS. Lục Minh Diệp: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha TrangTRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 145Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnsản lượng bào ngư khai thác hàng năm chỉ đạt xấpxỉ một tấn khô [2]. Trong tự nhiên, thức ăn của bàongư là các loại rong biển, tuy nhiên, số lượng vàchất lượng của nguồn thức ăn này lại phụ thuộc rấtnhiều vào mùa vụ, thời tiết. Do đó, việc nghiên cứusử dụng rong câu chỉ vàng khô làm thức ăn chobào ngư nuôi thương phẩm là rất cần thiết, giúp chủđộng được nguồn thức ăn đảm bảo về số lượng vàchất lượng cho nuôi bào ngư thương phẩm ở quymô lớn.II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứuBào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor).Hình 1. Bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor)2. Địa điểm nghiên cứuBào ngư chín lỗ được nuôi thương phẩm tại đảoBạch Long Vỹ từ tháng 5 tới tháng 11 năm 2012.3. Phương pháp nghiên cứu3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệmBào ngư giống được tuyển chọn đảm bảo các chỉtiêu: kích thước chiều dài 2,0 cm, khối lượng 9g ± 0,2,ngoại hình đầy đặn, không có dị hình, hoạt lực mạnh,lực bám mạnh. Bào ngư được nuôi trong lồng trụtròn đường kính 90 cm x chiều cao 60 cm, khunglồng làm bằng inox, xung quanh bao lưới cước.Lồng nuôi được buộc vào các cọc bê tông trên bãinuôi, khi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của thức ăn rong câu chỉ vàng khô (Gracilaria asiatica) lên quá trình tăng trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng thịt của bào ngư (Haliotis diversicolor Reeve, 1846) nuôi tại Bạch Long Vỹ - Hải PhòngTạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnSố 2/2014KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏCẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN RONG CÂU CHỈ VÀNG KHÔ(Gracilaria asiatica) LÊN QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNGVÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA BÀO NGƯ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846)NUÔI TẠI BẠCH LONG VỸ - HẢI PHÒNGEFFECTS OF DRY SEAWEED (Gracilaria asiatica) AS FOOD ON GROWTH RATE,SURVIVAL RATE AND MEAT QUALITY OF ABALONE (Haliotis diversicolor Reeve, 1846)CULTURE AT BACH LONG VY - HAI PHONGVõ Hồng Phương1, Lục Minh Diệp2Ngày nhận bài: 03/9/2013; Ngày phản biện thông qua: 27/9/2013; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014TÓM TẮTBài báo trình bày kết quả nghiên cứu khả năng sử dụng rong câu chỉ vàng khô làm thức để nuôi bào ngư, nhằm chủđộng nguồn thức ăn đảm bảo về số lượng và chất lượng, góp phần phát triển nghề nuôi bào ngư thương phẩm tại huyệnđảo Bạch Long Vỹ. Sau 166 ngày nuôi thương phẩm bằng lồng trên biển, có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tăng trưởngchiều dài và khối lượng của bào ngư ở các nghiệm thức thức ăn khác nhau. Bào ngư tăng trưởng cao nhất về chiều dài(42,80 ± 0,040 mm) và khối lượng (38,0 0 ± 0,043 g) ở nghiệm thức sử dụng thức ăn phối hợp là 25% rong câu khô + 75%rong tươi và tăng trưởng thấp nhất (41,90 ± 0,066 mm và 35,60 ± 0,044 g) khi sử dụng hoàn toàn rong câu chỉ vàng khôlàm thức ăn. Tỷ lệ sống của bào ngư đạt cao nhất (94,7%) khi nuôi bằng rong tươi, sau đó giảm dần theo mức độ tăng củatỷ lệ rong khô trong khẩu phần thức ăn và đạt thấp nhất (83,3%) khi cho ăn hoàn toàn bằng rong câu chỉ vàng. Tuy nhiên,tỷ lệ thịt/vỏ của bào ngư khi nuôi bằng rong câu chỉ vàng khô là 51%, cao hơn so với nghiệm thức cho ăn bằng rong tươi(45%), song không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về hàm lượng các chất dinh dưỡng và thành phần axít amin.Từ khóa: bào ngư, Haliotis diversicolor, rong câu chỉ vàng, Gracilaria asiaticaABSTRACTThis paper presents results on research of utilization ability of dry seaweed food for abalone culture as well asproviding a stable food source with high quality and quanlity which contributes to develop abalone grow-out culture farmin Bach Long Vy Island. After 166 days of grow-out culture in sea-cages, there was a significant difference in growth rate(length and weight) of abalone in different experiments. The growth rate of abalone in length (42.80 ± 0.040 mm) andweight (38.00 ± 0.043 g) was highest when fed 75% fresh seaweed + 25% dry seaweed and these figures were lowest inexperiment that used 100% of dry seaweed as food (41.90 ± 0.066 mm and 35.60 ± 0.044 g, respectively). The survivalrate of abalone was highest value of 94.7% when fed fresh seaweed, after that it decreased with increasing of dry seaweedratio and reached lowest value of 83.3% when fed dry seaweed. However, the meat/shell ratio of abalone fed dry seaweed(51%) was higher than those fed fresh seaweed (45%), but there was no significant difference in nutrient and amino acidcomposition of meat.Keyword: Abalone, Haliotis diversicolor, dry seaweed, Gracilaria asiaticaI. ĐẶT VẤN ĐỀBào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor) là loàiđộng vật chân bụng có phân bố chính tại vùng biểncủa đảo Bạch Long Vỹ, từ lâu đã được biết đến như12là loại hải đặc sản bổ dưỡng, có giá trị kinh tế cao vàđược sử dụng như là vị thuốc tự nhiên quý hiếm [1].Tuy nhiên, do khai thác quá mức nên nguồn lợibào ngư đã bị giảm sút nghiêm trọng. Hiện nay,Võ Hồng Phương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2010 - Trường Đại học Nha TrangTS. Lục Minh Diệp: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha TrangTRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 145Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnsản lượng bào ngư khai thác hàng năm chỉ đạt xấpxỉ một tấn khô [2]. Trong tự nhiên, thức ăn của bàongư là các loại rong biển, tuy nhiên, số lượng vàchất lượng của nguồn thức ăn này lại phụ thuộc rấtnhiều vào mùa vụ, thời tiết. Do đó, việc nghiên cứusử dụng rong câu chỉ vàng khô làm thức ăn chobào ngư nuôi thương phẩm là rất cần thiết, giúp chủđộng được nguồn thức ăn đảm bảo về số lượng vàchất lượng cho nuôi bào ngư thương phẩm ở quymô lớn.II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứuBào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor).Hình 1. Bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor)2. Địa điểm nghiên cứuBào ngư chín lỗ được nuôi thương phẩm tại đảoBạch Long Vỹ từ tháng 5 tới tháng 11 năm 2012.3. Phương pháp nghiên cứu3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệmBào ngư giống được tuyển chọn đảm bảo các chỉtiêu: kích thước chiều dài 2,0 cm, khối lượng 9g ± 0,2,ngoại hình đầy đặn, không có dị hình, hoạt lực mạnh,lực bám mạnh. Bào ngư được nuôi trong lồng trụtròn đường kính 90 cm x chiều cao 60 cm, khunglồng làm bằng inox, xung quanh bao lưới cước.Lồng nuôi được buộc vào các cọc bê tông trên bãinuôi, khi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thức ăn rong câu chỉ vàng khô Rong câu chỉ vàng khô Quá trình tăng trưởng Tỉ lệ sống Chất lượng thịt bào ngư Nuôi thương phẩm Tỉnh Khánh HòaGợi ý tài liệu liên quan:
-
8 trang 70 0 0
-
Quyết định số 38/2012/QĐ-UBND
5 trang 35 0 0 -
7 trang 33 0 0
-
Quyết định số 45/2012/QĐ-UBND
6 trang 29 0 0 -
Đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao công tác cải cách hành chính tại tỉnh Khánh Hòa
14 trang 27 0 0 -
7 trang 25 0 0
-
4 trang 25 0 0
-
21 trang 24 0 0
-
Khảo sát một số hành vi sức khỏe của người cao tuổi tỉnh Khánh Hòa
5 trang 23 0 0 -
32 trang 23 0 0
-
Kinh nghiêm nuôi cá rô phi vằn
60 trang 23 0 0 -
Nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất surimi từ cá mè hoa (Hypophthalmichthys nobilis)
9 trang 21 0 0 -
11 trang 21 0 0
-
Quyết định số 40/2012/QĐ-UBND
22 trang 21 0 0 -
21 trang 21 0 0
-
2 trang 20 0 0
-
4 trang 19 0 0
-
5 trang 19 0 0
-
15 trang 19 0 0
-
7 trang 18 0 0