Bản chất, hội nhập và phát triển của Phật học Việt Nam thời hiện đại: Phần 1
Số trang: 418
Loại file: pdf
Dung lượng: 13.96 MB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cuốn sách "Phật học Việt Nam thời hiện đại: Bản chất, hội nhập và phát triển - Phần 1" trình bày các nội dung về: Phật học Việt Nam hội nhập và phát triển; Đề xuất cải cách Phật học tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bản chất, hội nhập và phát triển của Phật học Việt Nam thời hiện đại: Phần 1 377 CƠHỘIVÀTHÁCHTHỨC ĐỐIVỚIGIÁODỤCPHẬTGIÁOĐƯƠNGĐẠI PGS. TS. Đỗ Thu Hà*1. GIỚI THIỆU Như ta đã biết, Phật giáo khôngphải là một loại hình có hệthốngthống nhất. Người ta thậm chí còn tranh luận liệu nó có thực sự làmột tôn giáo hay chỉ là một triết thuyết về đạo đức. Nhưng Phậtgiáo lan toả từ Ấn Độ đến nhiều nước trên khắp châu Á; và ở mỗiquốc gia, mỗi nền văn minh mà nó gặp, nó được hiểu và chấp nhậnvào nền văn hóa đó. Và vì vậy, ta tìm thấy các loại hình Phật giáo rấtkhác nhau trên khắp châu Á. Có ba làn sóng chung của Phật giáo. Một làn sóng đã đến ĐôngNam Á, được gọi là Phật giáo nguyên thủy như ta thấy ở Sri Lanka,Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia và một phần Việt Nam. Lànsóng thứ hai đi qua Trung Á đến Trung Quốc và từ Trung Quốcđến Nhật Bản và Hàn Quốc, và xuống Việt Nam. Và sau đó, một lànsóng khác từ Ấn Độ đến Tây Tạng và từ Tây Tạng đến Mông Cổ, vàkhắp Trung Á và các nhóm Mông Cổ khác nhau đã đến Nga, vì vậyBuryats, Kalmyks và cũng có cả một nhóm ở Thổ Nhĩ Kỳ - người *. Bộ môn Ấn Độ học, VNU, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.378 PHẬT HỌC VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI: BẢN CHẤT, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN Tunisia. Vì vậy, ta thấy Phật giáo có sự đa dạng rộng rãi, và đó là một chút đơn giản hóa, bởi vì trong đó có nhiều làn sóng khác nhau. Vì vậy, trong thế kỷ XXI, Phật giáo có rất nhiều điều mang đến cho chúng ta ở cấp độ toàn cầu, không bị giới hạn trong một nền văn hóa, bởi vì Phật giáo không bao giờ bị giới hạn trong một nền văn hóa. 2. MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC 2.1. Mục tiêu của giáo dục nói chung Nói chung, các xã hội tổ chức giáo dục với ba mục tiêu chính mặc dù những mục tiêu đó có thể được nhấn mạnh khác nhau bởi các xã hội khác nhau. Ba mục tiêu đó là: (1) Để chuẩn bị cho mọi người trở thành thành viên tốt của xã hội. Những thành viên trong xã hội phải có ít nhất hai khả năng: thứ nhất là làm việc để kiếm sống và thứ hai là sống phù hợp với các thành viên khác trong xã hội, biết các nghi thức, tập quán và cách sống được xã hội chấp nhận. Các xã hội cho đến nay đều dạy cho con cái hai khả năng này, mặc dù chúng có sự khác biệt về chi tiết và phương pháp. (2) Để đào tạo con người phát triển tốt theo các học thuyết và tín ngưỡng của người dân trong xã hội đó. Một số xã hội xem hai khả năng ở trên là không đủ vì đơn giản là chúng làm cho mọi người trở thành công dân tốt, nhưng không phải là người tốt. Con người có hai khía cạnh, bên ngoài và bên trong. Các khía cạnh bên ngoài liên quan đến quan hệ với những người khác. Khía cạnh bên trong là mối quan hệ với cốt lõi bên trong của nhân loại, của Chân đế - Thực tại tuyệt đối (paramattha dhamma). Do đó, trong các xã hội này, giáo dục là để biến mọi người thành Phật tử tốt, Kitô hữu tốt hay Muslim tốt là vì mục tiêu này. (3) Để làm giàu trí tuệ. Một số xã hội tin rằng con người khác với những con thú ở chỗ họ có trí tuệ để tìm kiếm và trân trọng sự thật trong chính bản thân họ. Đây là những sự thật không có công dụng hay tiện ích thực tế, chúng không giúp những người biết chúng trở CƠ HỘIVÀTHÁCHTHỨCĐỐIVỚIGIÁO DỤCPHẬTGIÁOĐƯƠNGĐẠI 379thành công dân tốt hơn hoặc là người tốt hơn hoặc thực hiện nhiệmvụ của mình tốt hơn nhưng chúng làm cho những người biết chúnghài lòng về những hiểu biết đó. Ở đây kiến thức là một mục đích chochính nó, không phải là một phương tiện cho một cái gì đó khác. Trong các xã hội phương Tây, vốn đã kế thừa tư duy của ngườiHy Lạp và Kitô hữu, giáo dục trong thời kỳ đầu nhấn mạnh các mụctiêu (2) và (3). Các cơ quan tôn giáo chịu trách nhiệm thực hànhgiáo dục ở cấp độ cao nhất (paramattha) và các trường đại học lànơi gặp gỡ của những người quan tâm đến việc theo đuổi kiến thức.Dạy nghề và giáo dục về các tập quán và phong tục xã hội được thựchiện tại nhà. Ở các xã hội phương Tây thời kỳ đầu, chính phủ khôngđóng vai trò tổ chức giáo dục. Sau đó, khi hệ thống kinh tế ngàycàng phức tạp, lao động có phân công và chuyên biệt hơn thành cáclĩnh vực khác nhau, hệ thống pháp lý và chính trị tương ứng trở nênphức tạp hơn. Với gia đình, nhà thờ và các trường đại học không cònkhả năng cung cấp kiến thức cần thiết để đáp ứng với những thayđổi xã hội mới, nhà nước bắt đầu đóng một vai trò lớn hơn trong tổchức giáo dục vì nhà nước có thể làm điều này hiệu quả hơn, có thểgiải quyết hiệu quả lâu dài hơn và có thể phục vụ một lĩnh vực rộnglớn hơn của cộng đồng. Anh là một ví dụ tốt trong trường hợp này. Ban đầu nhà nướckhông liên quan gì đến giáo dục. Các tổ chức tư nhân, tôn giáo vàphi tôn giáo ở Anh đã chịu trách nhiệm về giáo dục. Với sự thànhlập Đế quốc Anh, nhà nước bắt đầu giám sát giáo dục nhằm tạora những người có thể điều hành đế chế đó. Công nghiệp hóa bắtđầu vào giữa thế kỷ XVII ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bản chất, hội nhập và phát triển của Phật học Việt Nam thời hiện đại: Phần 1 377 CƠHỘIVÀTHÁCHTHỨC ĐỐIVỚIGIÁODỤCPHẬTGIÁOĐƯƠNGĐẠI PGS. TS. Đỗ Thu Hà*1. GIỚI THIỆU Như ta đã biết, Phật giáo khôngphải là một loại hình có hệthốngthống nhất. Người ta thậm chí còn tranh luận liệu nó có thực sự làmột tôn giáo hay chỉ là một triết thuyết về đạo đức. Nhưng Phậtgiáo lan toả từ Ấn Độ đến nhiều nước trên khắp châu Á; và ở mỗiquốc gia, mỗi nền văn minh mà nó gặp, nó được hiểu và chấp nhậnvào nền văn hóa đó. Và vì vậy, ta tìm thấy các loại hình Phật giáo rấtkhác nhau trên khắp châu Á. Có ba làn sóng chung của Phật giáo. Một làn sóng đã đến ĐôngNam Á, được gọi là Phật giáo nguyên thủy như ta thấy ở Sri Lanka,Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia và một phần Việt Nam. Lànsóng thứ hai đi qua Trung Á đến Trung Quốc và từ Trung Quốcđến Nhật Bản và Hàn Quốc, và xuống Việt Nam. Và sau đó, một lànsóng khác từ Ấn Độ đến Tây Tạng và từ Tây Tạng đến Mông Cổ, vàkhắp Trung Á và các nhóm Mông Cổ khác nhau đã đến Nga, vì vậyBuryats, Kalmyks và cũng có cả một nhóm ở Thổ Nhĩ Kỳ - người *. Bộ môn Ấn Độ học, VNU, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.378 PHẬT HỌC VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI: BẢN CHẤT, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN Tunisia. Vì vậy, ta thấy Phật giáo có sự đa dạng rộng rãi, và đó là một chút đơn giản hóa, bởi vì trong đó có nhiều làn sóng khác nhau. Vì vậy, trong thế kỷ XXI, Phật giáo có rất nhiều điều mang đến cho chúng ta ở cấp độ toàn cầu, không bị giới hạn trong một nền văn hóa, bởi vì Phật giáo không bao giờ bị giới hạn trong một nền văn hóa. 2. MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC 2.1. Mục tiêu của giáo dục nói chung Nói chung, các xã hội tổ chức giáo dục với ba mục tiêu chính mặc dù những mục tiêu đó có thể được nhấn mạnh khác nhau bởi các xã hội khác nhau. Ba mục tiêu đó là: (1) Để chuẩn bị cho mọi người trở thành thành viên tốt của xã hội. Những thành viên trong xã hội phải có ít nhất hai khả năng: thứ nhất là làm việc để kiếm sống và thứ hai là sống phù hợp với các thành viên khác trong xã hội, biết các nghi thức, tập quán và cách sống được xã hội chấp nhận. Các xã hội cho đến nay đều dạy cho con cái hai khả năng này, mặc dù chúng có sự khác biệt về chi tiết và phương pháp. (2) Để đào tạo con người phát triển tốt theo các học thuyết và tín ngưỡng của người dân trong xã hội đó. Một số xã hội xem hai khả năng ở trên là không đủ vì đơn giản là chúng làm cho mọi người trở thành công dân tốt, nhưng không phải là người tốt. Con người có hai khía cạnh, bên ngoài và bên trong. Các khía cạnh bên ngoài liên quan đến quan hệ với những người khác. Khía cạnh bên trong là mối quan hệ với cốt lõi bên trong của nhân loại, của Chân đế - Thực tại tuyệt đối (paramattha dhamma). Do đó, trong các xã hội này, giáo dục là để biến mọi người thành Phật tử tốt, Kitô hữu tốt hay Muslim tốt là vì mục tiêu này. (3) Để làm giàu trí tuệ. Một số xã hội tin rằng con người khác với những con thú ở chỗ họ có trí tuệ để tìm kiếm và trân trọng sự thật trong chính bản thân họ. Đây là những sự thật không có công dụng hay tiện ích thực tế, chúng không giúp những người biết chúng trở CƠ HỘIVÀTHÁCHTHỨCĐỐIVỚIGIÁO DỤCPHẬTGIÁOĐƯƠNGĐẠI 379thành công dân tốt hơn hoặc là người tốt hơn hoặc thực hiện nhiệmvụ của mình tốt hơn nhưng chúng làm cho những người biết chúnghài lòng về những hiểu biết đó. Ở đây kiến thức là một mục đích chochính nó, không phải là một phương tiện cho một cái gì đó khác. Trong các xã hội phương Tây, vốn đã kế thừa tư duy của ngườiHy Lạp và Kitô hữu, giáo dục trong thời kỳ đầu nhấn mạnh các mụctiêu (2) và (3). Các cơ quan tôn giáo chịu trách nhiệm thực hànhgiáo dục ở cấp độ cao nhất (paramattha) và các trường đại học lànơi gặp gỡ của những người quan tâm đến việc theo đuổi kiến thức.Dạy nghề và giáo dục về các tập quán và phong tục xã hội được thựchiện tại nhà. Ở các xã hội phương Tây thời kỳ đầu, chính phủ khôngđóng vai trò tổ chức giáo dục. Sau đó, khi hệ thống kinh tế ngàycàng phức tạp, lao động có phân công và chuyên biệt hơn thành cáclĩnh vực khác nhau, hệ thống pháp lý và chính trị tương ứng trở nênphức tạp hơn. Với gia đình, nhà thờ và các trường đại học không cònkhả năng cung cấp kiến thức cần thiết để đáp ứng với những thayđổi xã hội mới, nhà nước bắt đầu đóng một vai trò lớn hơn trong tổchức giáo dục vì nhà nước có thể làm điều này hiệu quả hơn, có thểgiải quyết hiệu quả lâu dài hơn và có thể phục vụ một lĩnh vực rộnglớn hơn của cộng đồng. Anh là một ví dụ tốt trong trường hợp này. Ban đầu nhà nướckhông liên quan gì đến giáo dục. Các tổ chức tư nhân, tôn giáo vàphi tôn giáo ở Anh đã chịu trách nhiệm về giáo dục. Với sự thànhlập Đế quốc Anh, nhà nước bắt đầu giám sát giáo dục nhằm tạora những người có thể điều hành đế chế đó. Công nghiệp hóa bắtđầu vào giữa thế kỷ XVII ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phật học Việt Nam thời hiện đại Thích Nhật Từ Giáo dục Phật giáo Phật học Việt Nam ngày nay Các phong trào Phật học tại Việt Nam Cải cách Phật học tại Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 30 0 0
-
Giáo dục Phật giáo với phát triển bền vững
10 trang 17 0 0 -
Phật giáo Việt Nam với an sinh xã hội thời hiện đại
9 trang 16 0 0 -
93 trang 15 0 0
-
Giáo dục Phật giáo với trục Huế – Hà Nội – Sài Gòn
8 trang 13 0 0 -
4 trang 12 0 0
-
Giới thiệu chung về hệ thống giáo dục phật giáo của các nước Phật giáo ở Đông Nam Á
11 trang 11 0 0 -
Phật giáo với việc đảm bảo an sinh xã hội cho đồng bào các dân tộc Tây Bắc
13 trang 11 0 0 -
Nghĩ về giáo dục Phật giáo ở Việt Nam
19 trang 11 0 0 -
Tổ chức giáo dục đạo đức Phật giáo cho Tăng Ni sinh viên của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế
6 trang 11 0 0