Danh mục

Bàn về thuật ngữ nhãn khoa Việt Nam

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 288.50 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết được Ban Biên tập Tạp chí nhãn khoa Việt Nam giới thiệu cùng toàn thể Hội viên những bài viết “Bàn về thuật ngữ Nhãn khoa” của PGS. Nguyễn Duy Tân để bạn đọc tham khảo và cùng trao đổi ý kiến. Hy vọng rằng đây sẽ là nền móng đầu tiên để có thể đi đến việc thành lập một “Hội đồng chuẩn hoá thống nhất thuật ngữ Nhãn khoa Việt Nam” sau này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bàn về thuật ngữ nhãn khoa Việt Nam4. Diễn đànBÀN VỀ THUẬT NGỮ NHÃN KHOA VIỆT NAMTừ nhiều năm nay, ngôn ngữ Nhãn khoa dùng trong cả nước trong tình trạng bấtcập và không thuần nhất. Chính vì vậy, vấn đề thống nhất các thuật ngữ Nhãn khoa đãđược các giáo sư đầu ngành cũng như toàn thể các hội viên Nhãn khoa Việt Nam rấtquan tâm và mong muốn tìm ra các giải pháp để khắc phục.Phó giáo sư Nguyễn Duy Tân, một trong những nhà chuyên môn đầy tâm huyết đãcó những bước đột phá đầu tiên trong lĩnh vực này.Ban Biên tập Tạp chí nhãn khoa Việt Nam xin trân trọng giới thiệu cùng toàn thểHội viên những bài viết “Bàn về thuật ngữ Nhãn khoa” của PGS. Nguyễn Duy Tân đểbạn đọc tham khảo và cùng trao đổi ý kiến.Hy vọng rằng đây sẽ là nền móng đầu tiên để có thể đi đến việc thành lập một“Hội đồng chuẩn hoá thống nhất thuật ngữ Nhãn khoa Việt Nam” sau này.Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc cả nước để chúng ta sớmcó thể chuẩn hoá được hệ thống thuật ngữ Nhãn khoa Việt Nam mà vẫn giữ gìn được sựtrong sáng của tiếng Việt.Xin trân trọng cảm ơn!Ban Biên tậpBÀN VỀ THUẬT NGỮ NHÃN KHOA:TỪ “THỂ THUỶ TINH” ĐẾN “PHA LÊ THỂ”NGUYỄN DUY TÂNTiếng Việt của dân tộc ta, trải qua hàng ngàn năm rồi ngót trăm năm đất nước bịngoại bang đô hộ, vẫn luôn giữ được sức sống bền bỉ và phát triển vững vàng. Ngônngữ Việt Nam ngày nay biểu thị một dân tộc trưởng thành (nước ngoài gọi là “nation”).Chính nhân dân ta làm ra ngôn ngữ và sử dụng nó trong cuộc sống hàng ngày.Bên cạnh ngôn ngữ dân gian đó, một dân tộc trưởng thành còn xây dựng cho mình một91ngôn ngữ văn hoá do nhân dân học thức tạo ra để sử dụng trong hoạt động chính trị, vănnghệ, khoa học và giáo dục.Thuật ngữ khoa học, và y học nói riêng, đã có những viên gạch đầu tiên từ trướcCách mạng tháng Tám [15, 18, 19]. Trong kháng chiến chống Pháp, một nền đại học bằngtiếng Việt đã hình thành, trong khi ở vùng tạm chiếm, dưới chế độ cũ ở miền Nam và cảtrong kiều bào ở nước ngoài, một số trí thức cũng đã bắt tay làm thuật ngữ tiếng Việt.Đại học Việt Nam là niềm tự hào chính đáng (vì nhiều nước thuộc địa cũ như ta, từ lâuđã độc lập mà cho đến nay vẫn chưa có một nền đại học hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ).Từ quá khứ đó, chúng ta đang kế thừa một di sản quý giá của những người tiềnbối. Di sản ấy phải được giữ gìn, gạn lọc, tu bổ và tạo dựng thêm, đặng “bàn giao” chocác thế hệ mai sau. Tôi nghĩ, đây là một trách nhiệm chúng ta phải tham gia gánh vác,một nghĩa vụ đối với lịch sử của ngành ta, và hơn nữa, cũng là nghĩa vụ đối với Tổquốc.Vậy thì anh chị em chúng ta cần phải quan tâm chăm sóc ngôn ngữ chuyên môncủa mình, sao cho nó được nhất quán, chỉnh tề và xác đáng. Có như vậy mới cung cấpđược cho những người làm từ điển, bây giờ và sau này, một chất liệu chân thực là Tiếng(nói và viết) của đông đảo quần chúng nhãn khoa. (Chắc chắn rằng các nhà từ điển, biêndịch hoặc giảng dạy và hướng dẫn khoa học cũng luôn tâm niệm “tự tu”, nghĩa là tudưỡng chuyên môn và ngôn ngữ của chính mình).Như mọi sự, ngôn ngữ không ngừng vận động. Hoặc là vận động theo hướng tíchcực, tiến hoá, hoặc có thể thụt lùi, suy thoái. Rõ ràng chúng ta chỉ muốn đi lên và nhấtđịnh phải đi cho tới.MẤY NHẬN XÉT CHUNGTrước mắt, trong “tiếng” nhãn khoa, chúng tôi thấy có vài điều “bất cập”, đángphải suy nghĩ và xem xét nghiêm túc.Một là, ngôn ngữ nhãn khoa ta đang dùng trong cả nước là một thứ tiếng khôngthuần nhất. Đây đó đang có chiều hướng trở thành “phương ngữ” (tiếng địa phương).Nếu như đó là lẽ đương nhiên trong ngôn ngữ dân gian (ở mọi nước) thì cái đó, trongngôn ngữ khoa học, lại là điều rất không nên và không có lý do tồn tại. Tiếng nhãn khoaphải được nhất thống lại (nghĩa là “thống nhất về một mối”). Cái “mối” ấy chính là sựnhận thức đúng đắn của toàn thể đội ngũ chúng ta, của cộng đồng nhãn khoa rộng lớn.Hai là, trong sinh hoạt nhãn khoa, ta đang dùng một ngôn ngữ nhiều khi không hàihoà với thuật ngữ của các bộ môn khác, đặc biệt là các khoa học cơ sở của y học: khi thìdùng một từ (nào đó) không đúng nghĩa mà người ta đã xác định; khi lại đặt một từ chomột hiện tượng mà thực chất không có nội dung ngữ nghĩa của từ đó, thậm chí có khi92còn tạo ra một từ “mới” sai nghĩa của từ vốn có sẵn. Đây là vấn đề kiến thức của từngngười, nên cũng không quan trọng lắm, miễn là đừng trở thành “thông lệ” của riêng ta.Về hai điều nói trên, thiết tưởng chúng ta cần tôn trọng thuật ngữ của các bộ môncơ sở, tuân thủ ngữ nghĩa của họ về cơ bản. Ngược lại, chúng ta cũng cần yêu cầu cácmôn khoa khác chấp thuận và áp dụng những gì là đặc thù của nhãn khoa,tức là nhữngthuật ngữ đã được nhất trí chọn lựa trong khoa Mắt sau khi thảo luận rộng rãi và bànbạc kỹ lưỡng.Ở đây nổi lên vấn đề danh từ giải phẫu của mắt và lộ ra nhiều chỗ “bất đồng”giữa ta và bộ môn Giải phẫu học, cũng như trong nội bộ nhãn khoa. Vì vậy chúng tôicho rằng việc làm trước hết là xem lại chi tiết các từ giải phẫu của chúng ta (tuy khôngbỏ qua việc chấn chỉnh, bổ ...

Tài liệu được xem nhiều: