Danh mục

Báo cáo khoa học: PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHAI THÁC THỦY SẢN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 367.40 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển các ngành và vùng. Bài viết này tập trung luận giải những yếu tố tác động của điều kiện tự nhiên, lao động và tổ chức sản xuất trên tàu cá, quản lý Nhà nước, các đặc trưng kỹ thuật tàu thuyền, các đặc trưng về ngư cụ cũng như thị trường đến phát triển khai thác thủy sản vùng duyên hải Nam Trung bộ....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo khoa học: " PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHAI THÁC THỦY SẢN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ" TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHAI THÁC THỦY SẢN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ AN ANALYSIS ON SEVERAL FACTORS INFLUENCING SUSTAINABLE DEVELOPMENT IN THE FISHING SECTOR OF THE SOUTHERN CENTRAL COASTAL AREAS OF VIETNAM Phan Thị Dung Trường Đại học Nha Trang TÓM TẮT Phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển các ngành và vùng. Bài viết này tập trung luận giải những yếu tố tác động của điều kiện tự nhiên, lao động và tổ chức sản xuất trên tàu cá, quản lý Nhà nước, các đặc trưng kỹ thuật tàu thuyền, các đặc trưng về ngư cụ cũng như thị trường đến phát triển khai thác thủy sản vùng duyên hải Nam Trung bộ. Trên cơ sở đó đề xuất một số gợi ý quản lý nhằm phát triển khai thác thủy sản trong vùng theo hướng bền vững như là: Quản lý cấp Giấy phép khai thác, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ; quản lý việc đóng mới tàu thuyền; đầu tư thiết bị và kỹ thuật khai thác. ABSTRACT Sustainable development on the basis of economic development, social development and environmental protection requires a process of industrial and regional development. This paper is concerned with a number of key issues such as natural conditions, fisherman and production organization, State management, characteristics of fishing vessels, fishing equipments and markets and fishing development of the Southern Central coastal areas of Vietnam. Based on this research, some orientations for management of sustainable fishing development in this area such as fishing license management, skilled workers training new boat building management, fishing and technological equipment investment have been suggested in this article. Keywords: sustainable development, fishing, fisherman 1. Đặt vấn đề Vùng duyên hải Nam Trung Bộ (Đà Nẵng đến Khánh Hòa) nghề khai thác thủy sản (KTTS) đã gắn bó lâu đời với ngư dân ven biển, là một trong những cái nôi đầu tiên của nghề câu cá ngừ đại dương với sản lượng trên 10 ngàn tấn/năm. Năm 2000 số lượng tàu thuyền của vùng trên 21 ngàn chiếc với công suất trên 588 ngàn CV, đến năm 2007 đã trên 26 ngàn chiếc với công suất trên 939 ngàn CV và đạt sản lượng khai thác gần 400 ngàn tấn 0. Sự phát triển KTTS đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước, giải quyết lượng lớn lao động và có ý nghĩa trong việc bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Sự tăng nhanh số lượng tàu thuyền một cách ồ ạt không theo qui hoạch, khai thác không tính đến yếu tố môi trường, tình trạng vi phạm pháp luật trong khai thác, sự mất trật tự trên biển… vẫn thường xuyên xảy ra ở vùng DHNTB. Nhiều tàu thuyền được đầu tư không 77 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 đồng bộ về máy móc, trang thiết bị, kỹ thuật khai thác cũng như trình độ của thuỷ thủ, vốn phải vay với lãi suất cao làm cho hiệu quả hoạt động không như mong muốn, bên cạnh đó, đời sống ngư dân phụ thuộc rất lớn vào biển cả, trình độ văn hóa thấp, gia đình đông con là một trong những rào cản lớn cho việc phát triển khai thác bền vững. Khai thác thủy sản Việt Nam hiện nay vẫn theo quan điểm tiếp cận mở, sự phát triển của nó chịu tác động của nhiều nhân tố như điều kiện tự nhiên, cách thức quản lý nguồn lợi cũng như môi trường xã hội. Phân tích và đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển khai thác làm cơ sở đưa ra các định hướng phát triển đúng đắn cho KTTS nói riêng và ngành Thủy sản nói chung 2. Phương pháp nghiên cứu Số liệu thứ cấp: Thu thập và tham khảo các kết quả điều tra, đề tài nghiên cứu, viện, trường, niên giám thống kê ...từ năm 2000- 2007. Số liệu sơ cấp: trực tiếp điều tra tàu câu tỉnh Phú Yên, tàu lưới rê và lưới kéo đơn thành phố Nha Trang, mẫu được chọn dựa theo cơ cấu công suất, phỏng vấn trực tiếp chủ tàu lúc không mùa vụ và tuần trăng. Phương pháp phân tích: Sử dụng tổng hợp các phương pháp như thống kê mô tả, so sánh... để đánh giá thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố đến phát triển khai thác thủy sản trong vùng duyên hải Nam Trung bộ. 3. Kết quả nghiên cứu Thứ nhất, Ảnh hưởng của đặc điểm tự nhiên đến phát triển KTTS Địa hình có độ dốc cao thuận tiện ra khơi Vùng DHNTB gồm các tỉnh nằm sát biển, đồng bằng nhỏ bé, địa hình dạng bãi biển với bãi triều mài mòn, bãi biển tích tụ sóng, bờ biển có độ dốc lớn. Do đặc điểm địa hình như vậy nên dân cư ở đây chủ yếu sống phụ thuộc vào biển, làm nghề KTTS. Bờ biển có độ dốc lớn thuận lợi cho việc ra khơi của các nghề lộng và nghề khơi, tiết kiệm chi phí di chuyển đến ngư trường trong vùng và ngược lại. Khí hậu, thủy triều tương đối thuận lợi cho KTTS Càng vào trong nhiệt độ càng ấm hơn và nhiệt độ cao hơn các vùng phía bắc, trung bình số giờ nắng cao (14giờ/ngày), chiều hướng nhiệt độ tăng dần từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa, ảnh hưởng đến hoạt động khai thác, một số tàu ngư dân đã tận dụng điều kiện này sản xuất các mặt hàng khô trên biển với chất lượng cao như mực khô, cá khô, ruốc khô… Chế độ thủy triều khá phức tạp bao gồm nhiều tính chất thủy triều khác nhau: Nhật triều không đều, bán nhật triều đều, bán nhật triều không đều với biên độ thay đổi đáng kể, cản trở cho việc ra vào cảng của các tàu thuyền, đặc biệt ở các vùng DHNTB có bãi ngang, bãi bồi, nhiều tàu bị mắc cạn trong quá trình ra vào cảng. Chính vì vậy công tác nạo vét, khơi thông các cửa sông là một trong các quan tâm của ngư dân khi ra vào cảng. 78 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: