Thông tin tài liệu:
Cũng như trong các bệnh thuộc các bộ phận khác, các phương pháp lâm sàng để thăm khám các bệnh tiêu hoá có thể giúp cho chúng ta chẩn đoán trong một phạm vi nhất định: chẩn đoán lâm sàng của chúng ta có thể đúng nhưng không chính xác, không đầy đủ. Các phương pháp cận lâm sàng nhất là phương pháp hiện đại sẽ giúp chúng ta đi sâu hơn trong chẩn đoán, cung cấp cho chúng ta những tài liệu thật chính xác, tỉ mỉ để tiên lượng, hoặc để hướng cho điều trị và phòng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẬN LÂM SÀNG ỐNG TIÊU HOÁ – Phần 1 CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẬNLÂM SÀNG ỐNG TIÊU HOÁ – Phần 1Cũng như trong các bệnh thuộc các bộ phận khác, các phương pháp lâm sàng đểthăm khám các bệnh tiêu hoá có thể giúp cho chúng ta chẩn đoán trong mộtphạm vi nhất định: chẩn đoán lâm sàng của chúng ta có thể đúng nhưng khôngchính xác, không đầy đủ. Các phương pháp cận lâm sàng nhất là phương pháphiện đại sẽ giúp chúng ta đi sâu hơn trong chẩn đoán, cung cấp cho chúng tanhững tài liệu thật chính xác, tỉ mỉ để tiên lượng, hoặc để hướng cho điều trị vàphòng ngừa biến chứng được đúng đắn hơn.Các phương pháp thăm dò cận lâm sàng ống tiêu hoá càng ngày càng phát triễnthêm nhiều nhờ:- Các thành tựu khoa học về sinh hoá và phóng xạ.- Các phát minh về Xquang và điện ảnh.- Sự sáng chế ra các ống soi và các công cụ sinh thiết. Có thể chia làm 4 loạiphương pháp:· Các phương pháp thăm dò hình thái.+ Xquang.+ Chụp “ xinê”.+ Soi nội tạng.· Các phương pháp thăm dò giải phẫu bệnh học:+ Xét nghiệm tế bào học.+ Sinh thiết niêm mạc.· Các phương pháp thăm dò nguyên nhân: Xét nghiệm ký sinh vật, và vi khuẩn.· Các phương pháp thăm dò chức năng: chủ yếu thăm dò chức năng dạ dày vàruột.1. Các phương pháp thăm dò hình thái.1.1. Xquang- Chiếu Xquang: có thể giải quyết ngay chẩn đoán trong một số trường hợp cấpcứu, chủ yếu đau bụng cấp với các hình ảnh:· Liềm hơi: triệu chứng đặc hiệu của thủng dạ dày hay thủng ruột.· Nhiều mức hơi và nước: triệu chứng đặc hiệu của tắc ruột.Đây là một phương pháp chẩn đoán thuận lợi vì đơn giản, nhanh chóng ít tốn kémnhưng vai trò rất hạn chế vì giải quyết được trong các trường hợp cấp cứu nóitrên, và cũng không ghi lại được các hình ảnh ấy để lưu trữ cho nên cần phảichụp Xquang không thuốc cản quang.- Chụp Xquang không thuốc cản quang: ngoài giá trị có thể ghi để lưu lại cáchình ảnh mà chiếu Xquang đã phát hiện được trong các trường hợp cấp cứu nóitrên, phương pháp này còn có thể phát hiện được một số trường hợp mà tác nhângây bệnh có thể cản được quang tuyến như:· Hầu hết các sỏi trong hệ thống tiết niệu.· Một số sỏi mật.· Một số sỏi tuỵ hoặc vết vôi hoá ở tuỵ.Để nhân định hình thái của mặt bên trong ống tiêu hoá, người ta đã dùng cácthuốc cản quang đưa vào ống tiêu hoá trước khi chụp: đó là phương pháp, chụpXquang có thuốc cản quang.- Chụp Xquang có thuốc cản quang: thuốc cản quang d ùng để chụp ống tiêu hoáchủ yếu có hai thứ: barisunfat và bitmut, cho vào ống tiêu hoá bằng:· Đường uống: để chụp tất cả các phần của ống tiêu hoá: chụp thực quản, chụp dạdày tá tràng, chụp ruột, chụp đại tràng (còn gọi là “ bữa ăn barit”).· Đường hậu môn: thụt chất cản quang vào đại tràng sau khi đã thụt tháo phân (còngọi là “ thụt Barit”) để chụp đại tràng.Cả hai đường uống và đường hậu môn có thể áp dụng trên cùng một người bệnhđể chụp đại tràng trong trường hợp u đại tràng khá to hoặc hẹp đại tràng khá khítlàm cho barit không qua được phía bên kia: kết hợp cả hai đường sẽ giúp tanhận định mức độ lan rộng của khối u hay của ống hẹp trong ống đại tràng.Dưới đây chúng tôi giới thiệu chỉ định và giá trị chẩn đoán của ph ương pháp nàyở mỗi phần của ống tiêu hoá.· Thực quản: chiếu rồi chụp thực quản với barit là phương pháp đơn giản nhất đểkiểm tra thực quản, để phát hiện các hình thái bất thường của chính thực quản,hoặc các biến dạng của thực quản do bệnh lý của các phủ tạng lâm cận (hạchtrung thất, khí quản, tim, màng phổi và phổi). Các hình thái bất thường này củathực quản cũng như các biến dạng do bệnh lý của tạng lân cận thường chỉ thểhiện trên lâm sàng bằng các triệu chứng chức năng gì cả và thầy thuốc cũngkhông thể nào phát hiện được trân lâm sàng vì không có triệu chứng thực thể, chonên chỉ có một cách phát hiện các tổn thương này là bằng Xquang rồi sau đó soithực quản.Trên lâm sàng, phương pháp Xquang th ực quản thường được chỉ định và rất cógiá trị chẩn đoán trong các trường hợp:+ Bệnh lý thực quản: u lành hoặc ác tính, hẹp thực quản, giãn thực quản túi phìnhthực quản.+ U trung thất (u hạch, u khí quản): để nhân định quan hệ của khối u với thựcquản.+ Bệnh tim: nhất là hẹp van hai lá. Để phát hiện hình ảnh thực quản bị đè bởi nhĩtrái to, triệu chứng quan trọng của hẹp van hai lá.+ Tăng áp lực cửa: để phát hiện các tĩnh mạch thực quản bị giãn.+ Lỗ rò thực quản và khí phế quản: Barit nuốt vào chảy cả vào khí quản qua lỗ ròsẽ xác định chẩn đoán.· Dạ dày tá tràng: đến hay chụp Xquang dạ dày và tá tràng vẫn là phương phápthăm dò hình thái chắc chắn nhất và đơn giản nhất để kiểm tra dạ dày và tá tràngcho nên bắt buộc phải được chỉ định trong tất cả các trường hợp nghi ngờ cóbệnh lý ở hai phần này của ống tiêu hoá.Chiếu dạ dày tá tràng sau khi uống barit hoàn toàn không có giá trị chẩn đoánbắt buộc phải được chỉ định trong tất cả các trường hợp nghi ngờ có bệnh lý ởhai phần nà ...