Danh mục

CÁC PROTHESE HIGH-TECH CHỐNG LẠI BỆNH ĐIẾC TAI NHỮNG ĐIỂM MỐC CÁC CON SỐ

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 112.59 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Những công trình nghiên cứu mới nhất ước tính rằng ở Pháp khoảng hơn 5.100.000 người bị giảm sút thính giác (déficience auditive) (8,7% dân số). Trong số những người này, 14% nói là sử dụng một hay nhiều thiết bị hỗ trợ thính giác (aide auditive). Tỷ lệ lưu hành của chứng điếc thường trực khi sinh (surdité permanente néonatale) được ước tính khoảng 1 trường hợp đối với 1000 lần sinh. Ngoài ra có nhiều trẻ em bị điếc bên trái hơn là bên phải. Và từ 80.000 đến 120.000 người điếc sử dụng ngôn ngữ bằng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÁC PROTHESE HIGH-TECH CHỐNG LẠI BỆNH ĐIẾC TAI NHỮNG ĐIỂM MỐC CÁC CON SỐ CÁC PROTHESE HIGH-TECH CHỐNG LẠI BỆNH ĐIẾC TAI NHỮNG ĐIỂM MỐC CÁC CON SỐ. Những công trình nghiên cứu mới nhất ước tính rằngở Pháp khoảng hơn 5.100.000 người bị giảm sút thính giác (déficienceauditive) (8,7% dân số). Trong số những người này, 14% nói là sử dụng mộthay nhiều thiết bị hỗ trợ thính giác (aide auditive). Tỷ lệ lưu hành của chứngđiếc thường trực khi sinh (surdité permanente néonatale) được ước tínhkhoảng 1 trường hợp đối với 1000 lần sinh. Ngoài ra có nhiều trẻ em bị điếcbên trái hơn là bên phải. Và từ 80.000 đến 120.000 người điếc sử dụng ngônngữ bằng dấu hiệu tiếng Pháp. NGUỒN GỐC. Có nhiều nguyên nhân của giảm sút thính giác. Có thểlà do di truyền hay mắc phải trong thời kỳ thai nghén một căn bệnh (thí dụtoxoplasmose hay rubéole), do bị những bệnh lý sau khi sinh (như viêmmàng não), do chấn thương âm thanh (traumaisme sonore), do thương tổncủa vài vùng của não bộ, do vài loại thuốc hay do tuổi già. MỨC ĐỘ NGHIÊM TRỌNG. Những trắc nghiệm đơn giản và khôngđau đớn là cần thiết để xác định mức độ điếc của một người. Đó là xác địnhsự giảm tri giác âm thanh (perception de sons) với những tần số khác nhau(từ cao đến trầm). Mất dưới 20 décibel, thính giác được xem như bìnhthường. Mất từ 20 đến 40 dB, ta nói là điếc nhẹ (surdité légère). Nhưng mộtcuộc đối thoại bình thường ở mức 40 dB, điều đó có thể gây trở ngại mộtđứa trẻ ở trường. Sau đó là những điếc mức độ trung bình, nặng và sâu (mấtbổ sung 90dB). IMPLANT. Đối với những mất thính giác trên 120 dB, ta nói là điếchoàn toàn (hay cophose). Trong những trường hợp mất thính giác do mộtloạn năng của ốc tai (cochlée), một cơ quan nhỏ rất phức tạp, sẽ biến đổinhững rung âm đến từ bên ngoài thành tín hiệu điện cho dây thần kinh thínhgiác. Có thể làm giảm sự suy sút này bằng cách thiết đặt những implant ốctai, sẽ mang trực tiếp một tín hiệu điện đến dây thần kinh thính giác. Cácimplant ốc tai đã cho phép mỗi năm khoảng 700 người Pháp nghe được trởlại. OREILLE. Những vấn đề gây điếc đa dạng và ảnh hưởng lên rất nhiềungười. Trong số những tiến bộ quan trọng nhất trong những năm qua là cácimplant ốc tai. Công nghệ học mũi nhọn (technologie de pointe) này chỉđược đề nghị sau khi các hỗ trợ thính giác (aide auditive) cổ điển thất bại.Các implant ốc tai được đặt cho các trẻ em bị chứng điếc vào lúc sinh(surdité de naissance) và cho những người lớn trở nên điếc, hoặc là do tainạn (thí dụ sau một vụ nổ) , hoặc do một bệnh di truyền như bệnh xốp tai(otospongiose), được đặc trưng bởi sự vắng dẫn truyền của các rung âm(vibration sonore) đến tai trong (oreille interne), trong thế nặng của bệnh.“Tin vui, đó là các implant ốc tai, được gọi như thế bởi vì các điện cực củachúng được đặt vào tai trong để kích thích trực tiếp các tế bào cảm giácthính giác (cellules auditives sensorielles), đã nhận được những cải tiến cuacác hỗ trợ thính giác cổ điển. Cũng như các các hỗ trợ thính giác này, cácimplant mới đã trở nên có thể phân biệt giữa tiếng ồn chung quanh và tiếngồn của một cuộc nói chuyện (người ta gọi điều đó là débruitage), để phục hồitốt nhất một cuộc đối thoại, GS Bruno Frachet, ORL (bệnh viện Avicenne)đã giải thích như vậy. Ngoài ra, kỹ thuật ngoại khoa cũng đã tiến triển: “Khivẫn còn tồn tại một khả năng nghe được những âm trầm, điều này thườngxảy ra nơi những người trưởng thành trở nên bị lảng tai sau khi bị một cănbệnh, người thầy thuốc ngoại khoa khi đặt các điện cực sẽ chú ý bảo tồnchức năng còn lại này. Điều đó cho phép có được một thính giác tự nhiênhơn và một sự thông hiểu hơn lời nói, nhất là trong một bầu không khí ồnào, GS Fracher đã xác nhận như vậy. Mặt khác, mặc dầu kỹ thuật ngoại khoanày ngày nay được hiệu chính tốt (với một sự can thiệp khoảng 1 giờ 30 đến2 giờ với gây mê tổng quát và một sự kiểm tra thính giác vào lúc cuối phẫuthuật) một kỹ thuật ngoại khoa còn nhẹ nhàng hơn, với hệ thống hướng dẫnnhờ một robot, theo dự kiến sẽ được phát triển từ nay đến 2012. Như vậycòn có thể rút ngắn thêm thời gian phẫu thuật...” Vậy còn hơn là phẫu thuật, giai đoạn phục hồi chức năng(rééducation) vẫn còn là giai đoạn tế nhị nhất : “Những người lớn được mổ,ngày xưa vốn đã nghe rõ và như thế đã học nói một cách bình thường, lànhbệnh với một thời gian phục hồi chức năng ngắn (trung b ình từ 4 đến 6tháng) trong khi những trẻ em điếc khi sinh sẽ cần một thời gian phục hồichức năng dài hơn nhiều để có thể khôi phục lại âm thanh được nghe và tạomối liên hệ với ý nghĩa của nó”, BS Christine Poncet-Wallet, ORL (bệnhviện Avicenne) đã ghi nhận như vậy. Những kết quả sẽ tốt hơn nếu đứa trẻđược đặt prothèse đúng trước năm 6 tuổi (lý tưởng là trước 24 tháng) vàchính vì thế nhiều cố gắng đã được thực hiện về phương diện này, với nhữngtrung tâm chẩn đoán sớm, ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: