Danh mục

Các thuật ngữ tài chính mới

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 117.15 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Biểu thuế quan chung (Common customs tariff) là biểu thuế quan chung, là mức thuế ngoại bộ chung của Liên minh Châu Âu EC. Không có mức thuế quan nào đánh vào buôn bán giữa các nước thành viên của EC và mức thuế quan chung đánh vào các mặt hàng nhập khẩu từ các nước thứ ba. Thực chất đây là vì mục đích bảo hộ, có nhiều nhượng bộ trong đó. Do đó, hầu hết các sản phẩm công nghiệp từ Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) không bị đánh thuế. Dưới Hệ thống ưu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các thuật ngữ tài chính mới Các thuật ngữ tài chính mới Biểu thuế quan chung (Common customs tariff) là biểu thuế quan chung, là mức thuế ngoại bộ chung của Liên minh Châu Âu EC. Không có mức thuế quan nào đánh vào buôn bán giữa các nước thành viên của EC và mức thuế quan chung đánh vào các mặt hàng nhập khẩu từ các nước thứ ba. Thực chất đây là vì mục đích bảo hộ, có nhiều nhượng bộ trong đó. Do đó, hầu hết các sản phẩm công nghiệp từ Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) không bị đánh thuế. Dưới Hệ thống ưu đãi chung, một lượng hàng hóa lớn từ các nước đang phát triển có thể được nhập khẩu trên cơ sở ưu đãi thuế quan không đối xứng. Tương tự, theo Công ước Lomé, các thành viên EC đã thống nhất một thỏa thuận thương mại, trợ giúp và hợp tác với 46 nước đang phát triển ở châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương. Thỏa thuận này cho phép tất cả hàng hóa công nghiệp và nhiều nông sản nhập vào EC từ các nước này không phải chịu thuế. Phân tán rủi ro (Risk diversification) là phương thức tiếp cận quản lí đầu tư được phân tích và phát triển bởi Harry Markowitz, và sau đó được khuyến khích bởi sự công nhận rộng rãi tính hữu dụng của mô hình định giá tài sản vốn. Áp dụng phương thức phân tán rủi ro, rủi ro có thể được làm giảm xuống mức thu hồi bình quân của vốn cổ phần qua sự phân chia tài sản thành nhiều lớp như cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ bằng tiền, và các loại hàng hoá, cũng như việc phân tán các loại tài sản này ngay trong danh mục của chúng và giữa các quốc gia khác nhau. Cú hích tăng trưởng (Big push) Thuật ngữ này chỉ một trong những đóng góp vào cuộc tranh luận diễn ra vào thập kỷ 1950 và 1960 về việc tăng trưởng cân đối hay không cân đối là chiến lược phát triển phù hợp nhất cho các nước phát triển. Khái niệm cú hích do Rosenstein-Rodan đưa ra, ủng hộ triết lý tăng trưởng cân đối và gợi ý rằng một chương trình đầu tư lớn vào nhiều dự án sẽ khắc phục được tính không thể chia được của cung và cầu. Có những cản trở về phía cầu ở các nước đang phát triển do thị trường nhỏ. Nếu một số ngành đồng thời được tạo lập, mỗi ngành có thể tạo ra cầu đối với sản phẩm của ngành khác. Tổng cầu sẽ tăng và các ngành có thể không kinh tế sẽ trở nên có hiệu quả kinh tế. Sự chênh lệch giữa sản phẩm biên tư nhân và xã hội sẽ giảm hoặc bị loại bỏ. Các nhà phê bình cho rằng chiến lược như vậy sẽ dẫn tới lạm phát nhanh chóng và sẽ không thực tế khi mong chờ một chương trình đầu tư rộng lớn sẽ diễn ra đồng thời trong nhiều ngành ở các nước đang phát triển. Thuyết lưỡng phân cổ điển (Classical dichotomy) Nội dung của học thuyết này là việc xác định riêng biệt và độc lập giá tương đối và tuyệt đối trong kinh tế học cổ điển và tân cổ điển. Trong phân tích cổ điển và tân cổ điển về việc làm và sản lượng, tất cả các biến lúc đầu được biểu thị bằng giá trị hiện thực và giá tương đối. Ở dạng đơn giản nhất, sản lượng là một hàm của lao động và kỹ thuật sản xuất. Lao động phụ thuộc vào tiền lương thực tế, tiền lương thực tế lại phụ thuộc vào cung và cầu của lao động. Để xác định giá cả và tiền công tuyệt đối, lý thuyết định lượng tiền tệ và các hình thái của nó được giới thiệu riêng biệt. Phương pháp này hàm ý rằng tiền tệ mang tính trung lập và không có ảnh hưởng tới các giá trị thực tế. Đây là một trong các định đề của trường phái Keynes nhằm liên kết tiền tệ và các biến thực tế rằng tiền tệ là không trung lập. Tiền có thể được giữ làm tài sản là tiền nhàn rỗi với tương lai không chắc chắn, và quyết định này có thể dẫn đến giảm cầu hữu hiệu đối với một mặt hàng hóa và dịch vụ nào đó cùng với tình trạng thất nghiệp do việc đó gây nên. Thuyết này vi phạm đến quan điểm cổ điển về tính trung lập của tiền tệ. Đến lượt mình, quan điểm trường phái Keynes cũng bị những người thuộc trường phái thích tiền mặt công kích. Họ đề xuất thuyết kỳ vọng hợp lý và lập luận rằng hành vi kinh tế bị chi phối bởi các đại lượng thực tế chứ không phải các đại lượng danh nghĩa. Điều này hàm ý rằng ngoại trừ trường hợp ngắn hạn khi việc nhận biết các sự kiện có thể được hình thành một cách không hoàn hảo, tiền tệ sẽ xác định các giá trị danh nghĩa nhưng không có ảnh hưởng tới các đại lượng thực tế như sản phẩm và việc làm. Với quan điểm đó thì thuyết lưỡng phân cổ điển vẫn đúng. Triết lý kinh tế Obama (Obamanomics) là một cách ghép từ để mô tả triết lý kinh tế của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Obamanomics kêu gọi mức thuế suất thấp hơn cho các công ty đáp ứng những tiêu chí nhất định, chẳng hạn như cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt và duy trì ổn định lực lượng lao động và các chi nhánh, trụ sở. Nền tảng kinh tế của Obamanomics cũng yêu cầu các loại thuế cao hơn áp dụng cho các gia đình có thu nhập cao và đầu tư vào giáo dục, y tế và khoa học. Obamanomics đứng đối lập với thuyết ủng hộ cung ứng, hoặc thuyết Trickle-down (ủng hộ việc cắt giảm thuế thu nhập cá nhân), cùng một số học thuyết kinh tế khác cho rằng người dân (bao gồm cả những người giàu) nên giữ lại nhiều hơn những gì họ kiếm được vì họ sẽ chi ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: