Danh mục

CAO HUYẾT ÁP : TỪ ĐIỀU TRỊ THUỐC ĐẾN CAN THIỆP NGOẠI KHOA

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 93.94 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Những tiến bộ sắp đến trong điều trị cao huyết áp là gì ? Ngày nay phải nhờ đến 5 lớp điều trị (classe thérapeutique). Xưa nhất, các thuốc lợi tiểu gia tăng sự bài tiết nước và muối, làm giảm thể tích máu và làm hạ huyết áp. Các betabloquant chống lại các tác dụng co mạch của hệ giao cảm, và các inhibiteur calcique, bằng tác dụng phong bế sự đi vào của calcium trong các tế bào cơ trơn, làm dễ sự giãn huyết quản. Vài betabloquant đặc hiệu làm chậm tần số và lưu lượng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CAO HUYẾT ÁP : TỪ ĐIỀU TRỊ THUỐC ĐẾN CAN THIỆP NGOẠI KHOA CAO HUYẾT ÁP : TỪ ĐIỀU TRỊ THUỐC ĐẾN CAN THIỆP NGOẠI KHOA Những tiến bộ sắp đến trong điều trị cao huyết áp là gì ? Ngày nayphải nhờ đến 5 lớp điều trị (classe thérapeutique). Xưa nhất, các thuốc lợitiểu gia tăng sự bài tiết nước và muối, làm giảm thể tích máu và làm hạhuyết áp. Các betabloquant chống lại các tác dụng co mạch của hệ giao cảm,và các inhibiteur calcique, bằng tác dụng phong bế sự đi vào của calciumtrong các tế bào cơ trơn, làm dễ sự giãn huyết quản. Vài betabloquant đặchiệu làm chậm tần số và lưu lượng tim, như thế làm giảm huyết áp. Nhữnglớp thuốc khác là những chất phong bế của hệ rénine-angiotensine-aldostérone (RAA), có vai trò chủ yếu trong sự điều hòa huyết áp, cùng vớicác inhibiteur de l’enzyme de conversion (IEC), các chất đối kháng của thụthể angiotensine 2 (ARA2), và mới đây hơn các chất phong bế trực tiếp củarénine. NGUY CƠ BIẾN CHỨNG Lớp khác của nhóm này, các antialdostérone, được dành cho nhữngtrường hợp cao huyết áp đề kháng. “Ta chờ đợi những thuốc mới chống lạicác đích khác của hệ RAA, trong đó có một chất ức chế sự tổng hợpaldostérone và một chất ức chế hỗn hợp (inhibiteur mixte) phong bế IEC,đồng thời ngăn cản sự thoái hóa của các peptide có tác dụng lợi tiểu và giãnmạch. Và ta cũng chờ đợi một chất ức chế endothéline, một chất co mạchmạnh”, GS Pathak đã giải thích như vậy. Khoảng 90% những người caohuyết áp có nguy cơ trung bình hoặc cao bị biến chứng nghiêm trọng. Caohuyết áp là bệnh nhiều yếu tố mà sự điều trị được xác lập “sur mesure” đốivới mỗi bệnh nhân bằng cách tìm kiếm tính hiệu quả tốt nhất và độ dung nạptốt nhất. “Chỉ 45% các bệnh nhân được kiểm soát bởi một loại thuốc. 25%cần sự kết hợp của 2 loại thuốc và 30% cần 3 loại thuốc để hy vọng bìnhthường hóa huyết áp của mình”, GS Xaviet Girerd đã ghi nhận như vậy. Đốivới những chuyên gia như GS Laurent, “Việc thực hiện càng sớm càng tốtmột liệu pháp hai thứ thuốc (bithérapie) cho phép đạt được sự hiệu quả hơn,nhất là nơi những người ở lứa tuổi 50, mà cứ hai bệnh nhân thì chưa đượcmột là có huyết áp được kiếm soát”. Mặc dầu chẩn đoán dễ dàng, mặc dầu có khoảng 500 biệt dược nhắmvào cao huyết áp, nhưng còn cần phải thực hiện nhiều tiến bộ. Cần phải pháthiện tốt hơn những bệnh nhân có nguy c ơ. Nhờ di truyền, có lẽ các puceADN chính xác hơn sẽ cho phép khám phá những biến dị làm dễ sự xuấthiện cao huyết áp thông thường, như mới đây puce đã cho phép nhận diệnnhững gène có liên quan trong phéochromocytome và hyperaldostéronisme,chịu trách nhiệm cao huyết áp thứ phát. Hay với sự sử dụng gia tăng các chỉdấu mô (marqueur tissulaire) như bề dày của động mạch cảnh hay độ cứngcủa động mạch, có lẽ có tính chất tiên đoán hơn vài chỉ dấu sinh học(marqueur biologique) bởi vì chứng tỏ những tổn hại tích lũy với thời gian.“Trong cao huyết áp đề kháng, một kỹ thuật mới, dénervation rénale, chophép làm giảm hoạt tính của hệ giao cảm bằng cách làm thương tổn, nhờ tầnsố phóng xạ (radiofréquence), các phân bố thần kinh của động mạch thận”,GS Pathak đã đảm bảo như vậy. Kỹ thuật này, mặc dầu cho những kết quảđáng lưu ý nhưng chỉ liên quan đến một số rất ít người bệnh mà thôi.

Tài liệu được xem nhiều: