Danh mục

CHOLESTEROL : KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ ?

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 105.48 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cholestérol, từ chữ Hy lạp cổ chole (“mật”) và stereos (“rắn”), có tên này là do nó đã được khám phá dưới dạng rắn trong những sỏi mật vào năm 1758 bởi thầy thuốc và nhà hóa học Pháp François Poulletier de la Salle. HÓA HỌC. Phân tử khá phức tạp về phương diện hóa học này, mà công trình nghiên cứu đã mang lại 3 giải Nobel cho các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến nó, là một lipide (do đó nó được xếp vào trong số các chất mỡ) tuyệt đối cần thiết cho cơ thể....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHOLESTEROL : KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ ? CHOLESTEROL : KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ ? MỠ. Cholestérol, từ chữ Hy lạp cổ chole (“mật”) và stereos (“rắn”),có tên này là do nó đã được khám phá dưới dạng rắn trong những sỏi mậtvào năm 1758 bởi thầy thuốc và nhà hóa học Pháp François Poulletier de laSalle. HÓA HỌC. Phân tử khá phức tạp về phương diện hóa học này, màcông trình nghiên cứu đã mang lại 3 giải Nobel cho các nhà nghiên cứu đãquan tâm đến nó, là một lipide (do đó nó được xếp vào trong số các chất mỡ)tuyệt đối cần thiết cho cơ thể. Cholestérol là một trong những chất ciment thiết yếu của các màng tếbào và cũng là chất cơ bản của nhiều vitamine và hormone. Và nó khôngphải là chất mỡ duy nhất lưu thông trong máu của chúng ta. Sự thặng dư củanó có thể tỏ ra có hại. Nhưng tính độc hại của cholestérol là do các chấtchuyên chở (véhicule) hơn là do chính bản thân cholestérol. HDL VA LDL. Đó là những chữ viết tắt của các “công ty vận tải” củacholestérol trong máu. Không có những protéine này, cholestérol, vì khôngtan trong nước, nên không thể đi vào trong những tế bào để được sử dụng ởđó. LDL có nhiệm vụ giao cholestérol vào trong các cơ quan và các mô từgan và ruột là những nơi nó được sản xuất. HDL quét sạch cholestréol dưthừa và mang nó đến gan để làm thoái biến. CÂN BẰNG. Khi sự quân bình giữa hai cách này, phân bố và loại bỏ,bị phá vỡ, các chất ứ đọng có thể được tạo thành bên trong các thành độngmạch. Mối liên hệ giữa nồng độ cholestérol trong máu và sự gia tăng nguycơ tim-mạch dường như ngày nay được xác lập rõ. STATINES. Một trong những tranh cãi hiện nay có liên quan đến vaitrò của các thuốc được gọi là statines. Những chất làm giảm lipide trong máu(hypolipidémiant) này được sử dụng để làm giảm nồng độ cholestérol trongmáu. Việc sử dụng và các chỉ định không tạo được sự nhất trí. Có thể tác động một cách hiệu quả để phòng ngừa những tai biến tim-mạch. ARTERES. Sự thặng dư cholestérol là nguyên nhân đầu tiên củachứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), chịu trách nhiệm mỗi năm ở Pháp200.000 bệnh tim do thiếu máu cục bộ (nhồi máu cơ tim hay các hội chứngđộng mạch vành) và 80.000 tai biến mạch máu não. Cần thiết cho cơ thể,cholestérol được vận chuyển trong máu dưới dạng lipoprotéine phức hợp :LDL, hay “cholestérol xấu” có nhiệm vụ vận chuyển cholestérol từ gan đếncác mô, và HDL, hay “cholestréol tốt” có nhiệm vụ mang cholestérol từ cácmô về gan, ở đây cholestérol được dùng trở lại hay bị loại bỏ. Khi quá mức,LDL đọng lại trên các động mạch, trong khi HDL tăng cao lại bảo vệ chốnglại chứng xơ mỡ động mạch. Các phần tử khác, VLDL, vận chuyển cáctriglycéride nhưng cũng chuyên chở một ít cholestérol. LDL là tác nhân quan trọng của sự tạo thành các mảng xơ mỡ (plaqued’athérome), một quá trình liên tục suốt cả cuộc đời. “Những động mạch củanhững người trẻ tuổi chết vào năm 20 hay 30 tuổi đã cho thấy những đườngrạch mỡ (stries graisseuses). Trừ phi theo chế độ ăn chay một cách nghiêmngặt ngay tuổi ấu thơ, dường như khó thoát được các đường rạch mỡ này”,GS Jean Ferrières, thầy thuốc chuyên khoa tim, CHU de Toulouse, đã nhấnmạnh như vậy. Ta hiểu càng ngày càng rõ ràng các mảng xơ mỡ này đượccấu tạo như thế nào. Các phần tử LDL tích tụ trong lớp nông của các thànhđộng mạch, ở đây được oxy hóa dần dần và bị ăn bởi các đại thực bào;những đại thực bào này được biến đổi thành những tế bào bọt (cellulespumeuse) chứa đầy cholestérol. Mảng được tạo thành như thế trở nên hóasợi và viêm. “Lúc lớn lên, mảng làm tắc động mạch và hạn chế sự cung cấpmáu vùng hạ lưu, điều này gây nên cơn đau thắt ngực hay viêm động mạch.Nếu mảng không vững và vỡ, một huyết khối (thrombus) được tạo thành lúctiếp xúc với máu và có thể bít động mạch, gây nên nhồi máu hay một taibiến mạch máu não”, GS Michel Krempf, thầy thuốc chuyên khoa nội tiếtthuộc CHU de Nantes đã tóm tắt như vậy. “Vì mối liên hệ giữa nguy cơ tim-mạch và nồng độ LDL trong máuliên tục, nên phải giảm nồng độ LDL khi nguy cơ tim mạch càng cao. Nguycơ này được tính bằng cách xét đến tuổi tác, giới tính, huyết áp, các tiền sửtìm-mạch, chứng nghiện thuốc lá và bệnh đái đường của bệnh nhân, GS EricBruckert, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU Pitié-Salpetrière(Paris) đã giải thích như vậy. Có một sự nhất trí tuyệt đồi về sự cần thiếtphải làm hạ cholestérol của những người có nguy cơ tim mạch cao. Vàkhông có lý do phải điều trị những người có nguy cơ thấp mà xác suất taibiến tim-mạch trong mười năm là dưới 10%. Quyết định tế nhị hơn đối vớinhững người có nguy cơ ở mức trung gian. Như vậy, có vẻ dường như hợplý khi điều trị một người đàn ông 60 tuổi bị bệnh đái đường, mặc dầucholestérol của ông ta không cao lắm, và không điều trị một phụ nữ 30 tuổinhưng không có yếu tố nguy cơ nào khác một nồng độ cholestérol hơi cao”,ông ta nói tiếp như vậy. Trong thực hành, ta xem như là có thể chấp nhậnđược một nồng độ cholestérol toàn thể quanh 2g/L và LDL quanh 1,3g/L.Nhưng nơi một người có nguy cơ cao, ta tìm cách để có được một LDL dưới1g/l và 0,70g/l trong phòng ngừa thứ cấp sau một nhồi máu cơ tim hay mộttai biến mạch máu não. Mới đây, tạp chí y khoa độc lập Cochrane kêu gọi thận trọng trongviệc kê đơn statines, thuốc làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant), nơinhững người có nguy cơ tim-mạch thấp, nhấn mạnh những hạn chế của cáccông trình nghiên cứu được thực hiện trong 10 năm về sự đóng góp của cácthuốc chống cholestérol quan trọng này trong sự phòng ngừa nguyên phátcác tai biến tim mạch. Điều này làm phát động trở lại cuộc tranh luận, mặcdầu, GS Bruckert đánh giá, “công trình nghiên cứu này chỉ nói lại điều màtất cả chúng ta đã nói: trong phòng ngừa nguyên phát, nơi những người cónguy cơ thấp, tỷ suất lợi ích/nguy cơ của statine không được tốt”. Nơi những ...

Tài liệu được xem nhiều: