Danh mục

Đất Vị Hoàng

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 126.46 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Có đất nào như đất ấy không? Phố phường tiếp giáp với bờ sông. Nhà kia lỗi phép con khinh bố, Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Keo cú người đâu như cứt sắt, Tham lam chuyện thở những hơi đồng. Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh Có đất nào như đất ấy không? Hãy phân tích bài thơ “Đất Vị Hoàng” của Tú Xương.Phân tích Vị Hoàng là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng xa xưa có sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đất Vị Hoàng Đất Vị Hoàng Trần Tế Xương Có đất nào như đất ấy không? Phố phường tiếp giáp với bờ sông. Nhà kia lỗi phép con khinh bố, Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Keo cú người đâu như cứt sắt, Tham lam chuyện thở những hơi đồng. Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh Có đất nào như đất ấy không?Hãy phân tích bài thơ “Đất Vị Hoàng” của Tú Xương. Phân tích Vị Hoàng là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng xa xưacó sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ ba sắcxuất hiện thì sông Vị Thủy bị lấp dần. Vị Hoàng vốn là một miền quê có thứchuối ngự ngon nổi tiếng cùng với thơ Tú Xương đã trở thành thổ ngơi, đặcsản quê nhà, một trăm năm về trước được truyền tụng trong dân gian: “Ănchuối ngự, đọc thơ Xương”. Vị Hoàng cũng vốn là “nơi sang trọng, chốnnhiều quan”. Nhưng rồi biển dâu biến đổi, trong buổi giao thời hổ lốn dởTây dở ta, ngày càng lộn xộn tang thương, đạo lý sa sút, suy đồi. Tú Xươngđau nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh nước bị mấtchủ quyền. Nước cũ, làng xưa có bài “Vị Hoàng hoài cổ” man mác buồnthương, lại có thêm bài thơ “Đất Vị Hoàng” này để nói lên những chuyệnxấu xa đồi bại ở Vị Hoàng, ở thành Nam. Bài “Đất Vị Hoàng” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật,thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ: “Có đất nào như đất ấykhông?”; nhà thơ hỏi để mà nguyền rủa, giọng thơ trở nên đau đớn, chuaxót. Nơi chôn rau cắt rốn thân thương nay đã thay đổi nhiều rồi, ngày ngàydiễn ra bao cảnh đau lòng. Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và“nhớ”: “Anh đi anh nhớ non Côi, Nhớ sông Vị Thủy nhớ người tình chung” Trong bài “Sông lấp”, Tú Xương viết: “Sông kia rày đã Lên đồng - Chỗlàm nhà cửa, chỗ trồng ngôi khoai…”. Cảnh ấy có khác gì ở đây: “Phốphường tiếp giáp với bờ sông”. Tây và bọn tay sai chiếm ruộng, chiếm bãi,chiếm đất, chiếm phố, chiếm nhà. Phố xá mọc lên cùng với bọn bất lương rasức vơ vét làm giàu. Trong nhà ngoài phố, kẻ chợ làng quê, nơi gần chốn xa,nhất là ở Vị Hoàng nhỡn tiền ra đó. “Nhà kia… mụ nọ…” vừa ám chỉ vừavạch mặt chỉ tên, đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnhnhà “lỗi phép”, con cái bất hiếu: “con khinh bố”. Có cảnh đời, đảo điên tìnhnghĩa, “chanh chua” như mụ nọ “vợ chửi chồng”. Có lẽ chỉ vì tiền mà đồibại đến cùng cực thế! Hai mối quan hệ làm rường cột của đạo lí: tình phụ -tử, nghĩa phu - thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Hỏng từ gia đình hỏngra. Không còn là hiện tượng cá biệt nữa. Thời bấy giờ nhan nhản phố phường những “tiết hạnh khả phong” như mụPhó Đoan, những gái tân thời như cô Hoàng Hôn, cô Tuyết (Số đỏ), nhữngme Tây như mụ Tư Hồng “có tàn, có tán, có hương án thờ vua, lẫy lừng bămsáu tỉnh”. (câu đối của Nguyễn Khuyến). Những “em chã”, những trưởnggiả, thượng lưu rởm đang “Âu hoá” sống phè phỡn, nhố nhăng! Hai câu thơ 3, 4 trong phần thực như bức biếm họa nhí nhảnh đăng đốivới bao vết ố, nét thơ ghê tởm, đặc tả sự đồi bại về luân thường đạo lý. “Nhà kia lỗi phép con khinh bố, Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.” Hai câu trong phần luận mở rộng ý thơ trong phần thực, làm cho bứctranh “Đất Vị Hoàng” được tô đậm sắc màu hiện thực. Không còn ước lệnữa. Hai nét vẽ về cảnh đời đáng buồn đáng thương đối nhau. Một bộ tứbình biếm họa hoàn chỉnh. Ở cái đất Vị Hoàng ấy nhan nhản những loạingười “tham lam” và “keo cú”. “Keo cú” đến bần tiện, ghê gớm và hôi hám.Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và so sánh: người đâu như cứt sắt “sao mà” đáng sợ,đáng khinh bỉ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực, nhịp sống cuộcđời họ chỉ là “chuyên thở rặt hơi đồng”. “Thở” là nhãn tự, rất linh diệu; nếuthay bằng chữ “nói” hay một từ nào khác thì không lột tả được bản chất loạingười tham lam đê tiện này. Vì đã “thở” nên phảo đi liền với “hơi” - hơiđồng”, tiền bạc. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, là trước hết trong mọimối quan hệ gia đình và xã hội. “Rặt” là từ cổ, nghĩa là “toàn là”, “đều là”.Phép đảo ngũ rất có giá trị thẩm mĩ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, mộttiếng chửi đời cay độc lên án loại người tham lam, keo cú mất hết nhân tính: “Keo cú / người đâu như cứt sắt, Tham lam / chuyện thở rắt hơi đồng” Hai câu kết đẩy vần thơ lên cao trào của giọng điệu châm biếm và lên án.Không còn là chuyện riêng, chuyện cá biệt ở cái làng Vị Hoàng nhỏ bé nữa,mà là hiện thực thối nát, đồi bại, xấu xa, đạo lý suy đồi, đảo điên… trong cáixã hội nửa thực dân phong kiến, của một nước bị mất chủ quyền. Cái xấu,cái ác đã trở thành nỗi đau, nỗi nhục của nhiều người, trên một không gianrộng lớn “Bắc, Nam”, và “bao nhiêu tỉnh”. Nghệ thuật thủ - vĩ ngâm dướihình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xótxa đau đớn, vừa căm giận khinh bỉ cái xã hội kim tiền, cái xã hội chó đểu mà30 năm sau Vũ Trọng Phụng phải nguyền rủa! “Đất Vị Hoàng” là bài thơ trào phúng độc đáo của Tú Xương. Muốn yêuquê, muốn tự hào về quê hương mà không được nữa. Nhà thơ sống trongtâm trạng đầy bị kịch. Bốn câu trong phần thực và luận là bộ tứ bình biếmhọa về 4 loại người trong xã hội dở Tây dở ta buổi đầu. Trong gia đình, conthì bất hiếu, “lỗi phép”, vợ thì “chanh chua” lăng loàn; ngoài xã hội đâu đâucũng chỉ có hạng người “tham lam” và “keo cú” vênh váo. Đạo lý suy đồimà nguyên nhân sâu xa là nước mất chủ quyền, là sự tác oai tác quái của mặttrái đồng tiền. Nhà thơ vừa đau xót, vừa khinh bỉ. Đúng là Tú Xương “đã đibằng hai chân” hiện thực trào phúng và trữ tình, tạo nên giọng điệu riênghiếm thấy. Bài thơ toàn Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo. Bốn câu hỏixuất hiện trong bài thơ làm cho ngữ điệu thêm dữ dội, đầy ám ảnh. Thơ liềnmạch, đúng là Tú Xương đã xuất khẩu thành thơ. Bút pháp điêu luyện mà tựnhiên, hồn nhiên, nhất khí mà bình dị. Trong thơ ca dân tộc ít có bài thơ thủ- vĩ ngâm hay như ...

Tài liệu được xem nhiều: