Giải pháp pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 549.88 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết tìm hiểu thực trạng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại; quy định về cấm cho vay và hạn chế cho vay; giải pháp pháp luật hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải pháp pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mạiTHỰC TIỄN PHÁP LUẬT Giải pháp pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại Nguyễn Thị Mai Hoa* Lợi nhuận và rủi ro là hai vấn đề luôn song hành với nhau, lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao; đó là mộtnguyên tắc luôn đúng với hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh, trong đó có ngân hàng thương mại (NHTM).Phát triển hoạt động kinh doanh và hạn chế rủi ro là yêu cầu tối quan trọng đối với NHTM, đặc biệt trong hoạtđộng cho vay, chỉ khi hạn chế được rủi ro NHTM mới thực sự phát triển và tạo sự ổn định cho nền kinh tế.1. Thực trạng hoạt động cho vay của Ngân vay của Kho bạc và các TCTD trong nước.hàng thương mại Quy định không được sử dụng các nguồn vốn Hiện nay, ở Việt Nam nguồn vốn huy động huy động của các đối tượng nói trên để cấp tínđược sử dụng để cấp tín dụng bao gồm: tiền dụng là bất hợp lý vì theo Hiệp hội Ngân hànggửi của cá nhân dưới hình thức tiền gửi không Việt Nam (VNBA), nguồn vốn huy động củakỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn; tiền gửi có kỳ các đối tượng trên chiếm từ 15% - 20% tronghạn của tổ chức (trừ Kho bạc Nhà nước), bao tổng số vốn huy động của các TCTD và đâygồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín là nguồn vốn có tính ổn định cao. NHTM chỉdụng (TCTD) khác và chi nhánh ngân hàng được cấp tín dụng trên nguồn vốn huy độngnước ngoài; tiền vay của tổ chức trong nước bằng 80%, còn lại 20% nguồn vốn huy động(trừ Kho bạc, tiền vay của TCTD khác trong và 15% nguồn vốn huy động từ Kho bạc vànước) và tiền vay của TCTD nước ngoài; vốn TCTD trong nước dùng để đảm bảo khả nănghuy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức thanh toán của ngân hàng là quá cao và khôngphát hành giấy tờ có giá. Nhưng theo Luật các hợp lý theo ý kiến của Hiệp hội ngân hàng ViệtTCTD năm 2010, Thông tư số 13/2010/TT- Nam gửi lên Thủ tướng Chính phủNHNN ngày 20/5/2010 của Thống đốc Ngân Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việthàng Nhà nước quy định về các tỷ lệ bảo đảm Nam, năm 2002, tổng số nợ xấu của các NHTMan toàn trong hoạt động của các TCTD, nguồn và TCTD là hơn 20.000 tỷ đồng, chiếm 7,2%vốn huy động để sử dụng cấp tín dụng không tổng dư nợ. Đến năm 2004, tổng nợ xấu giảmbao gồm: tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc, tiền xuống còn trên 13.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ(*) ThS. Biên tập viên Báo Pháp luật Việt Nam.56 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 8 2011 THỰC TIỄN PHÁP LUẬTdưới 4%, thấp hơn tỷ lệ an toàn cho phép theothông lệ quốc tế là 5%. Đến hết năm 2005,tổng tỷ lệ nợ xấu lại tăng lên con số 17.500 tỷđồng, nhưng lại chỉ chiếm 3,18% tổng dư nợ,riêng khối NHTM nhà nước thì tỷ lệ này trên5%. Đến tháng 9/2006, thực trạng nợ quá hạncủa các NHTM và TCTD là bao nhiêu chưacó con số công bố từ Ngân hàng Nhà nước,nhưng nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng,con số tuyệt đối là hơn 20.000 tỷ đồng, tỷ lệnày không biến đổi nhiều, vẫn dưới mức 5%do tổng dư nợ cho vay và đầu tư cũng tăngnhanh, nhưng không phải là đáng quan tâm.Song, một số chuyên gia của một số tổ chứctiền tệ quốc tế và chuyên gia NHTM trong của các ngân hàng ở thành phố là 748.900 tỉnước cho rằng, tỷ lệ nợ xấu của NHTM thực đồng, tính ra nợ xấu tới 31.290 tỉ đồng, tươngtế luôn cao gấp khoảng hai lần số liệu do Ngân đương gần 1,52 tỉ đô la Mỹ. Với cả nước, conhàng Nhà nước công bố hiện nay đang ở mức số tuyệt đối nợ xấu sẽ lớn hơn nhiều.7- 8%, riêng các ngân hàng. Hậu quả rủi ro trong hoạt động cho vay của Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước thông tin, NHTM tác động đến cả nền kinh tế - xã hộitỷ lệ nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam và các ngân hàng. Đối với ngân hàng, khi gặptính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2,5%. rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốnThống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng cho đã cấp và lãi cho vay, ngân hàng phải trả vốnbiết, toàn bộ dư nợ của hệ thống ngân hàng đối và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn,với Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy Việt điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trongNam (Vinshin) chỉ dưới 26 nghìn tỷ đồng và việc thu chi. Không thu được nợ thì vòng quayhiện đang cơ cấu lại 16 nghìn tỷ đồng. Số này vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanhchưa đưa vào nợ xấu, và nếu tính vào cũng chỉ không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng,tăng 0,7%. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải pháp pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mạiTHỰC TIỄN PHÁP LUẬT Giải pháp pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại Nguyễn Thị Mai Hoa* Lợi nhuận và rủi ro là hai vấn đề luôn song hành với nhau, lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao; đó là mộtnguyên tắc luôn đúng với hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh, trong đó có ngân hàng thương mại (NHTM).Phát triển hoạt động kinh doanh và hạn chế rủi ro là yêu cầu tối quan trọng đối với NHTM, đặc biệt trong hoạtđộng cho vay, chỉ khi hạn chế được rủi ro NHTM mới thực sự phát triển và tạo sự ổn định cho nền kinh tế.1. Thực trạng hoạt động cho vay của Ngân vay của Kho bạc và các TCTD trong nước.hàng thương mại Quy định không được sử dụng các nguồn vốn Hiện nay, ở Việt Nam nguồn vốn huy động huy động của các đối tượng nói trên để cấp tínđược sử dụng để cấp tín dụng bao gồm: tiền dụng là bất hợp lý vì theo Hiệp hội Ngân hànggửi của cá nhân dưới hình thức tiền gửi không Việt Nam (VNBA), nguồn vốn huy động củakỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn; tiền gửi có kỳ các đối tượng trên chiếm từ 15% - 20% tronghạn của tổ chức (trừ Kho bạc Nhà nước), bao tổng số vốn huy động của các TCTD và đâygồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín là nguồn vốn có tính ổn định cao. NHTM chỉdụng (TCTD) khác và chi nhánh ngân hàng được cấp tín dụng trên nguồn vốn huy độngnước ngoài; tiền vay của tổ chức trong nước bằng 80%, còn lại 20% nguồn vốn huy động(trừ Kho bạc, tiền vay của TCTD khác trong và 15% nguồn vốn huy động từ Kho bạc vànước) và tiền vay của TCTD nước ngoài; vốn TCTD trong nước dùng để đảm bảo khả nănghuy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức thanh toán của ngân hàng là quá cao và khôngphát hành giấy tờ có giá. Nhưng theo Luật các hợp lý theo ý kiến của Hiệp hội ngân hàng ViệtTCTD năm 2010, Thông tư số 13/2010/TT- Nam gửi lên Thủ tướng Chính phủNHNN ngày 20/5/2010 của Thống đốc Ngân Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việthàng Nhà nước quy định về các tỷ lệ bảo đảm Nam, năm 2002, tổng số nợ xấu của các NHTMan toàn trong hoạt động của các TCTD, nguồn và TCTD là hơn 20.000 tỷ đồng, chiếm 7,2%vốn huy động để sử dụng cấp tín dụng không tổng dư nợ. Đến năm 2004, tổng nợ xấu giảmbao gồm: tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc, tiền xuống còn trên 13.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ(*) ThS. Biên tập viên Báo Pháp luật Việt Nam.56 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 8 2011 THỰC TIỄN PHÁP LUẬTdưới 4%, thấp hơn tỷ lệ an toàn cho phép theothông lệ quốc tế là 5%. Đến hết năm 2005,tổng tỷ lệ nợ xấu lại tăng lên con số 17.500 tỷđồng, nhưng lại chỉ chiếm 3,18% tổng dư nợ,riêng khối NHTM nhà nước thì tỷ lệ này trên5%. Đến tháng 9/2006, thực trạng nợ quá hạncủa các NHTM và TCTD là bao nhiêu chưacó con số công bố từ Ngân hàng Nhà nước,nhưng nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng,con số tuyệt đối là hơn 20.000 tỷ đồng, tỷ lệnày không biến đổi nhiều, vẫn dưới mức 5%do tổng dư nợ cho vay và đầu tư cũng tăngnhanh, nhưng không phải là đáng quan tâm.Song, một số chuyên gia của một số tổ chứctiền tệ quốc tế và chuyên gia NHTM trong của các ngân hàng ở thành phố là 748.900 tỉnước cho rằng, tỷ lệ nợ xấu của NHTM thực đồng, tính ra nợ xấu tới 31.290 tỉ đồng, tươngtế luôn cao gấp khoảng hai lần số liệu do Ngân đương gần 1,52 tỉ đô la Mỹ. Với cả nước, conhàng Nhà nước công bố hiện nay đang ở mức số tuyệt đối nợ xấu sẽ lớn hơn nhiều.7- 8%, riêng các ngân hàng. Hậu quả rủi ro trong hoạt động cho vay của Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước thông tin, NHTM tác động đến cả nền kinh tế - xã hộitỷ lệ nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam và các ngân hàng. Đối với ngân hàng, khi gặptính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2,5%. rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốnThống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng cho đã cấp và lãi cho vay, ngân hàng phải trả vốnbiết, toàn bộ dư nợ của hệ thống ngân hàng đối và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn,với Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy Việt điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trongNam (Vinshin) chỉ dưới 26 nghìn tỷ đồng và việc thu chi. Không thu được nợ thì vòng quayhiện đang cơ cấu lại 16 nghìn tỷ đồng. Số này vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanhchưa đưa vào nợ xấu, và nếu tính vào cũng chỉ không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng,tăng 0,7%. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giải pháp pháp luật Hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay Rủi ro trong hoạt động cho vay Ngân hàng thương mại Hoạt động cho vayGợi ý tài liệu liên quan:
-
7 trang 241 3 0
-
19 trang 184 0 0
-
Các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng Mobile banking: Một nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
20 trang 177 0 0 -
Bài giảng học Lý thuyết tài chính- tiền tệ
54 trang 174 0 0 -
Hoàn thiện pháp luật về ngân hàng thương mại ở Việt Nam: Phần 1
190 trang 172 0 0 -
Giáo trình: Mô phỏng sàn giao dịch chứng khoán: Phần 1 - ĐH Kỹ thuật Công nghệ
28 trang 158 0 0 -
Bài giảng Lý thuyết tiền tệ: Bài 4 - Các ngân hàng trung gian
20 trang 151 0 0 -
Luận văn: Nâng cao năng lực cạnh tranh trong dài hạn bằng việc củng cố thị phần trong phân phối
61 trang 149 0 0 -
CÁC QUY TẮC VÀ THỰC HÀNH THỐNG NHẤT VỀ TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
29 trang 135 0 0 -
38 trang 131 0 0