Danh mục

HIỆN TƯỢNG KHÁNG THUỐC

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 109.27 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngay cả trước khi Penicillin được đưa vào sử dụng, Alexander Fleming đã dự đoán vi khuẩn rồi sẽ đề kháng với loại kháng sinh mới mà ông vừa tạo ra. Sự đề kháng thuốc xuất hiện bởi sự chọn lựa hoặc của dòng kháng nội tại hoặc của dòng đột biến; hơn nữa, mã DNA kháng thuốc truyền lại theo chiều dọc giữa các thế hệ cùng loài hay theo chiều ngang giữa các loài thông qua plasmid, transposon hay chuyển dạng. Toàn xã hội đã nỗ lực để tìm ra giải pháp khoa học cho vấn đề...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HIỆN TƯỢNG KHÁNG THUỐC KHÁNG THUỐC Ngay cả trước khi Penicillin được đưa vào sử dụng, AlexanderFleming đã dự đoán vi khuẩn rồi sẽ đề kháng với loại kháng sinh mới màông vừa tạo ra. Sự đề kháng thuốc xuất hiện bởi sự chọn lựa hoặc của dòngkháng nội tại hoặc của dòng đột biến; hơn nữa, mã DNA kháng thuốc truyềnlại theo chiều dọc giữa các thế hệ c ùng loài hay theo chiều ngang giữa cácloài thông qua plasmid, transposon hay chuyển dạng. Toàn xã hội đã nỗ lực để tìm ra giải pháp khoa học cho vấn đề này vàtrong 50 năm đầu của “thời đại kháng sinh” thực sự một số thuốc mới đãđược cung cấp. Chúng là dạng cải biên những thuốc đang sử dụng hoặc đượcphát triển từ những nhóm thuốc mới nhờ đó các nhà điều trị hầu như có khảnăng đi trước sự tiến hóa của vi khuẩn. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, sự cung ứng thuốc mới đã giảm đi, vàcải tiến các loại thuốc sẵn có chủ yếu chỉ điều chỉnh vi cấp. Ngoài ra, thuốcthay thế không những độc hại hơn mà còn đắt đỏ và bất tiện hơn cho ngườisử dụng. Sự gia tăng nhanh chóng của các vi khuẩn kháng thuốc cũng chẳng cógì đáng ngạc nhiên khi nhiễm trùng bệnh viện luôn là vấn nạn và chúng ta đãphải tiêu tốn một lượng lớn kháng sinh cho bệnh nhân suy kiệt và suy giảmmiễn dịch. Hơn thế, ranh giới giữa chăm sóc sức khỏe ở cộng đồng và trong bệnhviện cũng không còn rõ ràng nữa do việc thay đổi kiểu cách chăm sóc. Nhàđiều dưỡng và nhà lưu trú đóng vai trò nguồn tàng trữ với những bệnh nhânmang dòng vi khuẩn kháng thuốc, họ truyền sự kháng thuốc khi lại vào bệnhviện khác. Vấn đề đặc biệt đáng quan tâm là tụ cầu vàng kháng methicillin(MRSA). Khoảng 30% nhiễm khuẩn huyết hiện nay do S. aureus khángmethicillin. Sự gia tăng đề kháng của nhiễm trùng cộng đồng do phế cầu khángpenicillin, Salmonella typhi và vi khuẩn lao đa kháng thuốc đang trở thànhmối quan tâm toàn cầu. Cũng may mắn là các loại nhiễm trùng này chưa phổbiến ở Anh quốc, nhưng trong tương lai thì khó mà giữ được như vậy.Nguyên nhân của sự kháng thuốc này là do sử dụng kháng sinh bừa bãi, muathuốc dễ dàng cũng như hướng dẫn điều trị không đầy đủ. Việc sử dụng kháng sinh trong nông nghiệp ở động vật để thúc đẩytăng trưởng cũng như để phòng bệnh đã gây ra một áp lực sinh thái quantrọng lên vi khuẩn. Vì vậy, chúng ta cần phải xử trí vấn đề kháng thuốc từ nhiều góc độkhác nhau. Việc sử dụng kháng sinh hợp lí Kháng sinh đã từng được sử dụng rộng rãi do chúng thành công trongviệc giảm tỉ lệ mắc cũng như tỉ lệ tử vong trong các bệnh nhiễm trùng vàđiều này khiến người ta lầm tưởng là chúng có hiệu quả và có thể sử dụngcho mọi bệnh nhiễm. Việc sử dụng kháng sinh vô tội vạ được cho là sẽ dẫn tới sự khángthuốc, thế nhưng cho tới bây giờ vẫn chưa có bằng chứng nào để tán thànhhay phản bác quan điểm này. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy có sự liên quan giữa số lượngkháng sinh được dùng trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và sự hiện diện củacác loại vi khuẩn kháng thuốc trong các mẫu cấy nước tiểu và pneumococcikháng penicillin. Còn ở Phần Lan, việc giảm sử dụng macrolide cũng làmgiảm Pneumococci kháng erythromycin. Trong bệnh viện cephalosporinđược sử dụng rộng rãi làm tăng MRSA, cũng như vancomycin giúp pháttriển chủng Enterococci kháng vancomycin. Giáo dục sức khỏe Có vẻ đây là chìa khóa của vấn đề. Cần giúp cộng đồng hiểu rằng đasố các bệnh nhiễm là do virus và thường tự giới hạn nên việc điều trị mộtcách hệ thống là cần thiết và việc này cũng nên được tiến hành ở mức độquốc gia cũng như trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu. Điều trị bằng kháng sinh thích hợp là cần thiết khi nghi ngờ có nhiễmtrùng nhưng tốt nhất là khi có bằng chứng rõ ràng. Trong chăm sóc sức khỏe ban đầu thường sử dụng “kháng sinh phòngngừa” do thiếu đánh giá sơ bộ cận lâm sàng. Theo chúng tôi, một phần giảiđáp cho vấn đề này là phải nâng cấp công tác xét nghiệm trong kỹ thuật lấymẫu bệnh phẩm cũng như các trang thiết bị làm việc. Khi chưa có kết quả xét nghiệm, điều trị thường dựa theo kinh nghiệmcho các tác nhân gây bệnh thông thường, nhưng khi cận lâm sàng đã rõ ràngthì việc điều trị phải khu trú với phác đồ kháng sinh thích hợp nhất. Khi điềutrị thất bại nên xem lại chẩn đoán và cân nhắc để có những thay đổi thíchhợp nếu cần thiết. Những vấn đề này cần được nhấn mạnh trong việc giáo dục ở các bậcđại học và sau đại học cũng như trong công tác kiểm tra và thu nhận phảnhồi. Kiểm soát sử dụng kháng sinh trong nông nghiệp Khó có thể chứng minh sự phát triển các vi khuẩn kháng thuốc là hậuquả của sử dụng kháng sinh trong nông nghiệp, mặc d ù cũng có một số bằngcớ đáng chú ý. Vấn đề đang được bàn cãi là có nên tiếp tục sử dụng haykhông khi mà các nhu cầu bức thiết về kinh tế - xã hội trong việc hạ giáthành thực phẩm cũng gia tăng cùng với đòi hỏi phải cải ti ...

Tài liệu được xem nhiều: