Danh mục

Hiệu quả và tính an toàn của antithymocyte globulin (ATG) sử dụng dẫn nhập ở bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 641.47 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết tiến hành nhận xét hiệu quả và độ an toàn của điều trị dẫn nhập bằng antithymocyte globulin trong khi ghép thận để giảm tỷ lệ thải ghép cấp tính và ngăn ngừa chức năng thận ghép chậm hồi phục tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả và tính an toàn của antithymocyte globulin (ATG) sử dụng dẫn nhập ở bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 JOURNAL OF 108 - CLINICAL MEDICINE AND PHARMACY Vol.14 - No7/2019 Hiệu quả và tính an toàn của antithymocyte globulin (ATG) sử dụng dẫn nhập ở bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 Effectiveness and safety of antithymocyte globulins used in induction therapy in kidney transplant recipients in 108 Military Central Hospital Trần Hồng Nghị, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Việt Khoa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 Ngô Quân Vũ, Hồ Trung Hiếu Tóm tắt Mục tiêu: Nhận xét hiệu quả và độ an toàn của điều trị dẫn nhập bằng antithymocyte globulin trong khi ghép thận để giảm tỷ lệ thải ghép cấp tính và ngăn ngừa chức năng thận ghép chậm hồi phục tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 8 người nhận thận của người chết não hiến tạng hoặc người hiến thận sống đã được điều trị dẫn nhập antithymocyte globulin thỏ (ATG) từ tháng 01/2018 đến tháng 10/2019. Chỉ định và phác đồ ATG theo khuyến cáo của Hiệp hội Ghép tạng Bắc Mỹ. Liều dùng là 1mg/kg, thời gian dùng 5 ngày liên tiếp từ ngày ghép. Thuốc ức chế miễn dịch dự phòng: Prograf + cellcept + prednisolon. Đặc điểm lâm sàng, hiệu quả và an toàn của ATG, chức năng thận ghép, các biến chứng được đánh giá sau ghép cho đến thời điểm hiện tại (tháng 10/2019). Kết quả: 8 người được ghép thận (6 từ người cho sống, 2 từ người cho chết não) được điều trị dẫn nhập bằng ATG. Tuổi trung bình là 42,9 ± 8,6 tuổi (Nam/nữ: 7/1). 6 bệnh nhân lọc máu, 1 bệnh nhân lọc màng bụng, một bệnh nhân suy thận mạn chưa lọc máu. Thời gian lọc máu trung bình là 28,3 (2 - 120) tháng. Nguyên nhân suy thận do viêm cầu thận mạn (VCTM) chiếm 7/8 (87,5%), viêm khe thận mạn 1/8 (12,5%). Khác nhóm máu: 4/8 cặp (50%), 5 - 6 kháng nguyên HLA không tương hợp 4/8 (50%). Thời gian theo dõi trung bình 16,6 (1,6 - 25,5) tháng. Không có bệnh nhân nào bị thải ghép cấp, chức năng thận ghép ổn định 8/8 (100%) cho đến nay. 1 bệnh nhân có biến chứng nhiễm khuẩn huyết do E. coli và viêm phổi đã điều trị ổn định. Các biến chứng khác nhẹ và tự phục hồi. Kết luận: Sau khi xem xét các hạn chế của thiết kế nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng nhóm bệnh nhân được điều trị dẫn nhập với antithymocyte globulin (ATG) thỏ ở bệnh nhân ghép thận có tính an toàn và hiệu quả trong dự phòng thải ghép thận cấp và chậm phục hồi chức năng thận ghép. Biến chứng nhiễm khuẩn chỉ gặp ở 1 bệnh nhân, hồi phục sau điều trị kháng sinh. Từ khóa: Ghép thận, ức chế miễn dịch, antithymocyte globulin (ATG). Summary Objective: To describe our experiences with a group of renal transplant patients treated with rabbit antithymocyte globulin (ATG) as induction therapy at transplant to reduce the incidence of acute rejection and prevent delayed allograft function at 108 Military Central Hospital. Subject and Ngày nhận bài: 12/11/2019, ngày chấp nhận đăng: 25/11/2019 Người phản hồi: Trần Hồng Nghị, Email: hongnghi108@gmail.com - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 30 TẠP CHÍ Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 Tập 14 - Số 7/2019 method: Retrospective study of 8 kidney recipients of deceased-donor or living-donor kidney transplants received rabbit antithymocyte globulin (rATG) from January 2018 to October 2019. Indications and ATG induction were recommended by the North American Organ Transplant Association. The dosage was 1mg/kg in 5 consecutive days from the date of transplant. Prophylactic immunosuppressive therapy included prograf, cellcept and prednisolon. Clinical characteristics, efficacy and safety of ATG, kidney function, and complications evaluated after transplantation until the present time (October 2019). Result: 8 kidney transplant recipients (6 from living donors, 2 from brain death donors) were treated with ATG. The mean age was 42.9 ± 8.6 years (Male/female: 7/1). 6 patients were on dialysis, 1 patient was on peritoneal dialysis, one ESRD patient was on conservative treatment. The average time for dialysis was 28.3 (2 - 120) months. Causes of renal failure were due to glomerulonephritis (7/8 patients, 87.5%). ABO blood type-incompatible kidney transplantation was on 4 pairs (50%), 5 - 6 HLA mismatches 4 pairs (50%). The median follow-up period was 16.6 (1.6 - 25.5) months. No patients had an acute rejection episode. Currently, all recipients had good allograft function (8 patients, 100%). 1 patient had sepsis caused by E. coli and pneumonia, recovered stable with specific treatment. Other complications were mild and self-recover. Conclusion: Considering the study design limitations, we observed that anti ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: