Hoằng Nghị Đại Vương - Thân phụ Thái sư Trần Thủ Độ 3Có thể đoán định rằng: Trần Thủ Độ đã được chính cha của mình là Trần Hoằng Nghị dạy cho các bài học đầu tiên về quân sự và chính trị. Tài năng xuất chúng về đánh giặc cũng như cai trị đất nước của Trần Thủ Độ, chắc chắn được gieo mầm và vun xới, tưới tắm từ mảnh đất Bến Trấn – ứng Mão - Phương La quê ông. Vào đầu triều Trần, khi ông nói với vị vua nhỏ, cháu mình (Trần Thái Tông) rằng:...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoằng Nghị Đại Vương - Thân phụ Thái sư Trần Thủ Độ 3 Hoằng Nghị Đại Vương - Thân phụ Thái sư Trần Thủ Độ 3 Có thể đoán định rằng: Trần Thủ Độ đã được chính cha của mình là Trần HoằngNghị dạy cho các bài học đầu tiên về quân sự và chính trị. Tài năng xuất chúng vềđánh giặc cũng như cai trị đất nước của Trần Thủ Độ, chắc chắn được gieo mầmvà vun xới, tưới tắm từ mảnh đất Bến Trấn – ứng Mão - Phương La quê ông. Vàođầu triều Trần, khi ông nói với vị vua nhỏ, cháu mình (Trần Thái Tông) rằng: “Tatuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chốnggiặc cướp” (6), ấy là chỉ muốn bảo rằng ông không được học Nho giáo (Tứ th ư,Ngũ kinh) và không đọc được chữ Hán - cái thứ chữ ngày xưa phải bỏ ra hàng gần10 năm đèn sách mới có thể đọc và hiểu nghĩa, chứ không phải là ông chưa từngđược đọc gì. Về công lao sự nghiệp của Trần Hoằng Nghị đối với quê hương và lịch sử Theo chúng tôi, vùng đất Sơn nam Hạ xưa, tỉnh Thái Bình và Nam Định nay, có4 vùng đất, tựa như 4 cột trụ tạo dựng nên vương triều Trần, đó là: Tức Mặc (NamĐịnh), Lưu Xá, Thái Đường và Bến Trấn (Thái Bình). Sử sách của ta đã bàn nhiềuvề vị trí quan trọng của 3 vùng đất trên (Tức Mặc - Lưu Xá - Thái Đường), nhưngcho đến gần đây, vẫn ít chú ý tới vị thế của Bến Trấn. Khu Bến Trấn tức vùng đất Phương La - Xuân La - Trác Dương xã TháiPhương ngày nay là một khu vực kinh tế phồn thịnh, làm hậu phương vững chắccho dòng họ Trần. Họ Trần tạo dựng thế lực, tiến tới thay thế nhà Lý, công lao ấy,đầu tiên phải kể tới công lao, tài trí của cụ Trần Hoằng Nghị, người cha tài năngcủa Trần Thủ Độ. Chúng ta cần chi nhận công sức của cụ trên các lĩnh vực nổi bậtdưới đây: Phát triển nghề nông tại khu Bến Trấn Ký ức dân gian vùng đất này đèu ghi nhận cụ Trần Hoằng Nghị là người đầutiên tổ chức dân chúng khai canh, lập ấp, lập nên khu Bến Trấn trù mật. Tươngtruyền để tránh sự xâm canh của cư dân làng khác với vùng đất mới khai khẩn, cụTrần Hoằng Nghị đã đem cối đá lỗ giăng: “Thượng chí Vô Tè; hạ chí Cống Cách Tây chí Tú Mậu - Đồng Trang” để làm mốc giới. Toàn bộ vùng đất này, khá rộng, ước chừng vài km2. Nếu lấy Đền Nhà Ông làmtâm điểm, quay một bán kính khoảng 1,5km là ôm trọn đất hoang xưa của cụ TrầnHoằng Nghị. “Thượng chí Vô Tè”, có nghĩa phía Bắc giáp với Làng Tè, xã PhúKhánh; “Hạ chí Cống Cách” có nghĩa phía Nam giáp với khu Cống Cách (naythuộc làng Diêm, xã Minh tân), “Tây chí Tú M ậu - Đồng Trang”, tức phía Tây đếnthôn Tú Mậu, thôn Đồng Trang, thuộc xã Hồng An. Một vấn để được đặt ra là khu Bến Trấn vừa được khai khẩn vào cuối đời Lýnằm trong loại hình sở hữu ruộng đất nào? Như chúng ta đã biết, ngay từ khi thành lập, nhà Lý (1010-1225) đã thừa hưởngđược di sản ruộng đất quốc hữu của các triều đại Đinh và Tiền Lê trước đó. Hanhvi của vua Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi xa giá đến châu Cổ Pháp (Đ ình Bảng, TiênSơn – Bắc Ninh)... sai các quan đo đất vài mươi dặm làm cấm địa thuộc sơn lăng”(7), và sau đó, năm 1011, “xá thuế ba năm cho cả nước, phàm những thuế các nămtrước còn thiếu đều xoá bỏ cả” (8), thể hiện rõ quan niệm về quyền sở hữu củaNhà nước đối với toàn bộ đất đai trong nước đã ăn sâu vào tiềm thức của giai cấpthống trị đương thời. Sự tồn tại của chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất ở thờiLý - Trần là một thực tế được khẳng định. Tuy vậy bên cạnh đó, sự tồn tại một số trang ấp nhỏ như trang ấp của TrầnHoằng Nghị vừa kể trên, chứng tỏ rằng, nhà Lý vẫn cho phép tồn tại hình thức sởhữu tư nhân về ruộng đất. Như vây, điều đáng chú ý ở đây là, trong khi khẳng địnhquyền sở hữu tối cao của mình đối với toàn bộ lãnh thổ đất nước, chính quyền Lý,cũng như Trần vẫn cho phép nhân dân sử dụng, hưởng thụ mọi hoa lợi của núirừng và khai khẩn đất hoang để làm ruộng tư hay ruộng công làng xã. Như vây, có thể thấy Bến Trấn, hoặc làng Mẹo là trang ấp riêng của TrầnHoằng Nghị trong buổi dầu khai canh lập ấp. Không phải ngẫu nhi ên, tại đây cótới 12 dòng họ: Trần, Vũ, Đoàn, Đinh, Lê, Phạm, Nguyễn, Đỗ, Đào, Đặng, Bùi,Linh, thì họ Trần là họ có số người đông nhất (12 chi họ) và cũng cư trú lâu đờinhất. Cũng không phải ngẫu nhiên, ngoài làng Mẹo (ứng Mão - Phương La) còn mộtsố di tích, ký ức tồn tại ở nơi khác cũng nhắc đến cụ Trần Hoằng Nghị. Ở ngay hai làng bên cạnh làng Phương La là Xuân La và Trác Dương cũng đềuthờ cụ làm thành hoàng. Tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán – Nôm, hiện còn lưugiữ được một tư liệu quý liên quan đến vấn đề này. Đó là Bản khai Thần tích –Thần sắc (9) của xã Xuân La, tổng Lập Bái, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình doviên Lý trưởng (không rõ tên) và viên Chánh hội Hoàng Văn Chẩn thực hiện theoyêu cầu của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tại Hà Nội (EFEO) vào khoảng 1935.Theo như lời khai của viên Lý trưởng và viên Chánh hội xã Xuân La thì xã này vàxã Trác Dương (tức làng Then) ở bên cạnh, đều thờ cụ Trang Nghị Đại Vương làmthầ ...