Kết quả nghiên cứu thử nghiệm nuôi sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) trong bể xi măng bằng con giống sản xuất nhân tạo có kích thước khác nhau
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 533.47 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) là đối tượng có giá trị dinh dưỡng cao, có giá trị kinh tế, nhiều tiềm năng để phát triển thành một đối tượng nuôi phù hợp với nhiều địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, đối tượng này chưa được nghiên cứu nhiều. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu nuôi thử nghiệm sá sùng trong bể xi măng bằng con giống sản xuất nhân tạo với 2 nhóm kích thước (Nghiệm thức 1 có chiều dài trung bình 2,0 ± 0,2 cm, khối lượng 0,29 ± 0,09 g, Nghiệm thức 2 có chiều dài trung bình dài 1,0 ± 0,1 cm, khối lượng 0,08 ± 0,02 g).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết quả nghiên cứu thử nghiệm nuôi sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) trong bể xi măng bằng con giống sản xuất nhân tạo có kích thước khác nhau Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM NUÔI SÁ SÙNG (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) TRONG BỂ XI MĂNG BẰNG CON GIỐNG SẢN XUẤT NHÂN TẠO CÓ KÍCH THƯỚC KHÁC NHAU RESEARCH RESULTS OF PEANUT WORM (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) CULTURE TRIALS IN XIMEN TANKS USING ARTIFICIAL BREEDING SEEDS OF DIFFERENT SIZES Võ Thế Dũng1, Võ Thị Dung2, Nguyễn Thị Ngọc Trang3 Ngày nhận bài: 18/11/2014; Ngày phản biện thông qua: 08/12/2014; Ngày duyệt đăng: 10/2/2015 TÓM TẮT Sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) là đối tượng có giá trị dinh dưỡng cao, có giá trị kinh tế, nhiều tiềm năng để phát triển thành một đối tượng nuôi phù hợp với nhiều địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, đối tượng này chưa được nghiên cứu nhiều. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu nuôi thử nghiệm sá sùng trong bể xi măng bằng con giống sản xuất nhân tạo với 2 nhóm kích thước (Nghiệm thức 1 có chiều dài trung bình 2,0 ± 0,2 cm, khối lượng 0,29 ± 0,09 g, Nghiệm thức 2 có chiều dài trung bình dài 1,0 ± 0,1 cm, khối lượng 0,08 ± 0,02 g). Sau 60 ngày nuôi (với Nghiệm thức 1) và 80 ngày nuôi (Nghiệm thức 2). Kết quả cho thấy: Nghiệm thức 1 cho tỷ lệ sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với Nghiệm thức 2 (79,5% so với 69,6%); Nghiệm thức 1 sinh trưởng chiều dài và khối lượng nhanh hơn có ý nghĩa thống kê so với Nghiệm thức 2 (đạt 5,94 cm và 2,93 g so với 5,34 cm và 2,32 g). Sử dụng con giống có chiều dài 2,0 cm cho tỷ lệ sống và sinh trưởng tốt hơn con giống 1,0 cm. Từ khóa: Nuôi sá sùng, Sipunculus nudus, kích thước giống, sinh trường, tỷ lệ sống ABSTRACT Peanut worm (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) is a highly nutritious and economical species, and good potential for aquaculture in different localities in Vietnam. However, this species has not been studied much. This paper present results of growth trial of Peanut worm in ciment tanks using artificial seeds of two size (Trial 1 with average length of 2.0 ± 0.2 cm, weight of 0.29 ± 0.09 g, Trial 2 with average length of 1.0 ± 0.1 cm, weigth of 0.08 ± 0.02 g). After 60 days (with Trial 1) and 80 days (with Trial 2) of culturing. Results showed that: survival rate of Trial 1 was statistical higher than Trial 2 (79.5% compared to 69.6%); Leng and weigth growth of Trial 1 were statistical higher than Trial 2 (5.94 cm and 2.93 g compared to 5.34 cm and 2.32 g). Using the artificial seeds of 2.0 cm long give better survival and growth rates than the seed of 1.0 cm long. Keywords: Peanut worm culture, Sipunculus nudus, seed size, growth, survival rate I. ĐẶT VẤN ĐỀ Khánh Hòa có bờ biển dài, có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nuôi nhiều loài hải sản. Tại Khánh Hòa, đã có nhiều công trình nghiên cứu xây dựng các quy trình nuôi các loài hải sản thành công như tôm sú, ốc hương, cua xanh, tôm chân trắng. Tất cả các loài này đều đã được phát triển thành các đối tượng nuôi thương phẩm 1 3 thành công tại Khánh Hòa, sau đó được nhân rộng ra nhiều địa phương khác trên cả nước. Mặc dù vậy, thời gian gần đây các đối tượng truyền thống nói trên đều ít nhiều gặp phải khó khăn, đặc biệt là những khó khăn do dịch bệnh gây ra. Dịch bệnh đã làm người dân không còn vốn để sản xuất hoặc tiếp tục sản xuất nhưng không có lợi nhuận, nên nhiều ao đầm ở khắp nơi trên địa bàn cả tỉnh bị bỏ hoang. TS. Võ Thế Dũng, 2 ThS. Võ Thị Dung: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III Nguyễn Thị Ngọc Trang: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2007 - Trường Đại học Nha Trang 12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Việc tìm ra một đối tượng nuôi mới, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương, phù hợp với khả năng về vốn của người dân, có thị trường tiêu thụ là hết sức cấp bách. Sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) đã được tìm thấy ở vùng triều các tỉnh Quảng Ninh, Khánh Hòa (Nguyễn Thu Hà và cs, 2004; Nguyễn Quang Hùng và cs, 2005). Thịt sá sùng thơm ngon, chứa 18 axít amin (trong đó có 8 axít amin không thay thế) và 17 khoáng chất rất cần thiết cho sự sống (Nguyễn Huỳnh Dạ Thảo và cs, 2004); vì thế, nhu cầu của thị trường cả trong và ngoài nước ngày càng tăng, áp lực khai thác làm nguồn lợi tự nhiên của sá sùng suy giảm nhanh chóng (Võ Thế Dũng và các cs, 2013b). Hiện nay, mỗi kg sá sùng tươi sống có giá từ 200-300.000 đồng, nhưng số lượng không nhiều, và ngày càng giảm mạnh (Võ Thế Dũng và cs, 2013; Võ Thế Dũng và cs, 2014). Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, góp phần bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, sử dụng hiệu quả những ao đang bị bỏ hoang do không thể nuôi các đối tượng khác, đồng thời tìm ra một nghề mới mang lại thu nhập cho cư dân địa phương. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa cấp kinh phí thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm sá sùng Sipunculus nudus Linnaeus, 1767 tại Khánh Hòa). Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu của nội dung “Lựa chọn kích thước giống thả phù hợp cho sá sùng” thuộc đề tài nói trên. Số 1/2015 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Chuẩn bị bể để nuôi sá sùng thương phẩm - Thí nghiệm được thực hiện trong các bể xi măng có độ sâu ≥ 1,0 m, diện tích đáy mỗi lô thí nghiệm là 24 m2. Lót đáy bể bằng chất đáy cát-bùn, độ dày lớp chất đáy khoảng 35 cm. Chọn chất đáy từ các khu vực không bị ô nhiễm với nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, hay các hóa chất được thải ra trong quá trình sản xuất nông nghiệp, thủy sản như chlorine,… Đem phơi khô chất đáy để loại bỏ bớt các khí độc gây ô nhiễm trước khi đưa vào đáy bể nuôi sá sùng. Lọc chất đáy qua lưới để loại bỏ vỏ ốc, vỏ sò và một số sinh vật còn sống có thể làm ảnh hưởng đến sá sùng giống khi mới thả xuống. - Lắp hệ thống sục khí dưới đáy bể. - Bơm nước biển qua lọc cơ học vào bể, xả bỏ vài lần để làm sạch chất đáy. Cuối cùng bơm nước vào bể đến độ sâu mực nước khoảng 70-90 cm. - Cấy tảo, bổ sung ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết quả nghiên cứu thử nghiệm nuôi sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) trong bể xi măng bằng con giống sản xuất nhân tạo có kích thước khác nhau Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM NUÔI SÁ SÙNG (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) TRONG BỂ XI MĂNG BẰNG CON GIỐNG SẢN XUẤT NHÂN TẠO CÓ KÍCH THƯỚC KHÁC NHAU RESEARCH RESULTS OF PEANUT WORM (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) CULTURE TRIALS IN XIMEN TANKS USING ARTIFICIAL BREEDING SEEDS OF DIFFERENT SIZES Võ Thế Dũng1, Võ Thị Dung2, Nguyễn Thị Ngọc Trang3 Ngày nhận bài: 18/11/2014; Ngày phản biện thông qua: 08/12/2014; Ngày duyệt đăng: 10/2/2015 TÓM TẮT Sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) là đối tượng có giá trị dinh dưỡng cao, có giá trị kinh tế, nhiều tiềm năng để phát triển thành một đối tượng nuôi phù hợp với nhiều địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, đối tượng này chưa được nghiên cứu nhiều. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu nuôi thử nghiệm sá sùng trong bể xi măng bằng con giống sản xuất nhân tạo với 2 nhóm kích thước (Nghiệm thức 1 có chiều dài trung bình 2,0 ± 0,2 cm, khối lượng 0,29 ± 0,09 g, Nghiệm thức 2 có chiều dài trung bình dài 1,0 ± 0,1 cm, khối lượng 0,08 ± 0,02 g). Sau 60 ngày nuôi (với Nghiệm thức 1) và 80 ngày nuôi (Nghiệm thức 2). Kết quả cho thấy: Nghiệm thức 1 cho tỷ lệ sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với Nghiệm thức 2 (79,5% so với 69,6%); Nghiệm thức 1 sinh trưởng chiều dài và khối lượng nhanh hơn có ý nghĩa thống kê so với Nghiệm thức 2 (đạt 5,94 cm và 2,93 g so với 5,34 cm và 2,32 g). Sử dụng con giống có chiều dài 2,0 cm cho tỷ lệ sống và sinh trưởng tốt hơn con giống 1,0 cm. Từ khóa: Nuôi sá sùng, Sipunculus nudus, kích thước giống, sinh trường, tỷ lệ sống ABSTRACT Peanut worm (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) is a highly nutritious and economical species, and good potential for aquaculture in different localities in Vietnam. However, this species has not been studied much. This paper present results of growth trial of Peanut worm in ciment tanks using artificial seeds of two size (Trial 1 with average length of 2.0 ± 0.2 cm, weight of 0.29 ± 0.09 g, Trial 2 with average length of 1.0 ± 0.1 cm, weigth of 0.08 ± 0.02 g). After 60 days (with Trial 1) and 80 days (with Trial 2) of culturing. Results showed that: survival rate of Trial 1 was statistical higher than Trial 2 (79.5% compared to 69.6%); Leng and weigth growth of Trial 1 were statistical higher than Trial 2 (5.94 cm and 2.93 g compared to 5.34 cm and 2.32 g). Using the artificial seeds of 2.0 cm long give better survival and growth rates than the seed of 1.0 cm long. Keywords: Peanut worm culture, Sipunculus nudus, seed size, growth, survival rate I. ĐẶT VẤN ĐỀ Khánh Hòa có bờ biển dài, có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để phát triển nuôi nhiều loài hải sản. Tại Khánh Hòa, đã có nhiều công trình nghiên cứu xây dựng các quy trình nuôi các loài hải sản thành công như tôm sú, ốc hương, cua xanh, tôm chân trắng. Tất cả các loài này đều đã được phát triển thành các đối tượng nuôi thương phẩm 1 3 thành công tại Khánh Hòa, sau đó được nhân rộng ra nhiều địa phương khác trên cả nước. Mặc dù vậy, thời gian gần đây các đối tượng truyền thống nói trên đều ít nhiều gặp phải khó khăn, đặc biệt là những khó khăn do dịch bệnh gây ra. Dịch bệnh đã làm người dân không còn vốn để sản xuất hoặc tiếp tục sản xuất nhưng không có lợi nhuận, nên nhiều ao đầm ở khắp nơi trên địa bàn cả tỉnh bị bỏ hoang. TS. Võ Thế Dũng, 2 ThS. Võ Thị Dung: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III Nguyễn Thị Ngọc Trang: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2007 - Trường Đại học Nha Trang 12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Việc tìm ra một đối tượng nuôi mới, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương, phù hợp với khả năng về vốn của người dân, có thị trường tiêu thụ là hết sức cấp bách. Sá sùng (Sipunculus nudus Linnaeus, 1767) đã được tìm thấy ở vùng triều các tỉnh Quảng Ninh, Khánh Hòa (Nguyễn Thu Hà và cs, 2004; Nguyễn Quang Hùng và cs, 2005). Thịt sá sùng thơm ngon, chứa 18 axít amin (trong đó có 8 axít amin không thay thế) và 17 khoáng chất rất cần thiết cho sự sống (Nguyễn Huỳnh Dạ Thảo và cs, 2004); vì thế, nhu cầu của thị trường cả trong và ngoài nước ngày càng tăng, áp lực khai thác làm nguồn lợi tự nhiên của sá sùng suy giảm nhanh chóng (Võ Thế Dũng và các cs, 2013b). Hiện nay, mỗi kg sá sùng tươi sống có giá từ 200-300.000 đồng, nhưng số lượng không nhiều, và ngày càng giảm mạnh (Võ Thế Dũng và cs, 2013; Võ Thế Dũng và cs, 2014). Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, góp phần bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, sử dụng hiệu quả những ao đang bị bỏ hoang do không thể nuôi các đối tượng khác, đồng thời tìm ra một nghề mới mang lại thu nhập cho cư dân địa phương. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa cấp kinh phí thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm sá sùng Sipunculus nudus Linnaeus, 1767 tại Khánh Hòa). Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu của nội dung “Lựa chọn kích thước giống thả phù hợp cho sá sùng” thuộc đề tài nói trên. Số 1/2015 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Chuẩn bị bể để nuôi sá sùng thương phẩm - Thí nghiệm được thực hiện trong các bể xi măng có độ sâu ≥ 1,0 m, diện tích đáy mỗi lô thí nghiệm là 24 m2. Lót đáy bể bằng chất đáy cát-bùn, độ dày lớp chất đáy khoảng 35 cm. Chọn chất đáy từ các khu vực không bị ô nhiễm với nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, hay các hóa chất được thải ra trong quá trình sản xuất nông nghiệp, thủy sản như chlorine,… Đem phơi khô chất đáy để loại bỏ bớt các khí độc gây ô nhiễm trước khi đưa vào đáy bể nuôi sá sùng. Lọc chất đáy qua lưới để loại bỏ vỏ ốc, vỏ sò và một số sinh vật còn sống có thể làm ảnh hưởng đến sá sùng giống khi mới thả xuống. - Lắp hệ thống sục khí dưới đáy bể. - Bơm nước biển qua lọc cơ học vào bể, xả bỏ vài lần để làm sạch chất đáy. Cuối cùng bơm nước vào bể đến độ sâu mực nước khoảng 70-90 cm. - Cấy tảo, bổ sung ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thử nghiệm nuôi sá sùng Nuôi sá sùng Sipunculus nudus Linnaeus Bể xi măng Sản xuất giống nhân tạoGợi ý tài liệu liên quan:
-
7 trang 60 0 0
-
Sổ tay kỹ thuật nuôi cá thát lát và cá còm
27 trang 20 0 0 -
2 trang 14 0 0
-
Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản nước lợ ở Thanh Hóa - Lê Xuân Khâm
2 trang 13 0 0 -
Kỹ thuật kích thích sinh sản ngao móng tay chúa (Cultellus maximus Gmelin, 1791)
9 trang 9 0 0 -
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất giống cá lăng chấm tại tỉnh Thanh Hóa
5 trang 9 0 0 -
Chuyên đề: XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRẠI SẢN XUẤT GIỐNG CUA BIỂN (Scylla paramamosain) TRÊN KÊNH ĐÀO CẤP III
13 trang 9 0 0 -
60 trang 8 0 0
-
9 trang 8 0 0
-
9 trang 7 0 0