Nghiên cứu về tổ chức học sự phát triển ống tiêu hóa và các thử nghiệm xác định thời điểm chuyển đổi thức ăn là cơ sở cho việc thiết lập một chế độ cho ăn hiệu quả trong ương nuôi ấu trùng cá khoang cổ cam (Amphiprion percula). Ấu trùng cá khoang cổ cam trước khi nở đã có một ống tiêu hóa phát triển khá hoàn thiện, do đó chúng có thể tiếp nhận con mồi đầu tiên là luân trùng ngay sau khi nở. Tuy nhiên, các tuyến tiêu hóa trong dạ dày phát triển mạnh mẽ khi cá ở giai đoạn từ 15 ngày tuổi trở đi, tùy điều kiện ương nuôi. Vì vậy, thời điểm cho ăn Artemia và thức ăn tổng hợp thích hợp cho ấu trùng cá khoang cổ cam có thể lần lượt từ 7 – 10 ngày tuổi và sau 14 ngày tuổi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khả năng tiêu hoá và thời điểm chuyển đổi thức ăn trong ương nuôi ấu trùng cá khoang cổ cam (Amphiprion percula Lacepede, 1802Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnSố 2/2013VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅIKHẢ NĂNG TIÊU HÓA VÀ THỜI ĐIỂM CHUYỂN ĐỔI THỨC ĂNTRONG ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG CÁ KHOANG CỔ CAM(Amphiprion percula Lacepede, 1802)THE DIGESTIVE ABILITY AND WEANING OF AGE FOR ORANGE CLOWNFISH(Amphiprion percula Lacepede, 1802) LARVAE CULTURETrần Thị Lê Trang1, Trần Văn Dũng2, Nguyễn Đắc Kiên3Ngày nhận bài: 09/01/2013; Ngày phản biện thông qua: 25/4/2013; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013TÓM TẮTNghiên cứu về tổ chức học sự phát triển ống tiêu hóa và các thử nghiệm xác định thời điểm chuyển đổi thức ăn làcơ sở cho việc thiết lập một chế độ cho ăn hiệu quả trong ương nuôi ấu trùng cá khoang cổ cam (Amphiprion percula). Ấutrùng cá khoang cổ cam trước khi nở đã có một ống tiêu hóa phát triển khá hoàn thiện, do đó chúng có thể tiếp nhận conmồi đầu tiên là luân trùng ngay sau khi nở. Tuy nhiên, các tuyến tiêu hóa trong dạ dày phát triển mạnh mẽ khi cá ở giaiđoạn từ 15 ngày tuổi trở đi, tùy điều kiện ương nuôi. Vì vậy, thời điểm cho ăn Artemia và thức ăn tổng hợp thích hợp choấu trùng cá khoang cổ cam có thể lần lượt từ 7 – 10 ngày tuổi và sau 14 ngày tuổi.Từ khóa: cá khoang cổ cam, tổ chức học, ống tiêu hóa, chuyển đổi thức ănABSTRACTHistological studies on the development of the digestive system and tests for determining the optimum age forweaning on larvae of organe clownfish (Amphiprion percula) are basis in order to establish optimal feeding regimes fortheir culture. Before hatching orange clownfish larvae possess a differentiated alimentary tract, therefore they readilyaccept rotifers after hatching. However, gastric glands in the stomach strongly develop in the stage of 15 days of ageonwards, depending on culture condition. Thus, the time of Artemia feeding and artificial feed for orange clownfish larvaecan begin from 7 to 10 and 14 days of age, respectively.Keywords: Amphiprion percula, histological studies, digestive system, weaningI. MỞ ĐẦUCá khoang cổ cam (A. percula), đối tượng thuộchọ cá Thia biển (Pomacentridae), là một trong nhữngloài cá cảnh có giá trị kinh tế cao, được thị trườngtrong và ngoài nước rất ưa chuộng. Nhờ đặc điểmsống cộng sinh với hải quì, sự đa dạng về màu sắcvà khả năng thích nghi cao trong điều kiện nuôi nhốtnên loài cá này đã và đang được nuôi phổ biến ởnhiều quy mô khác nhau [21]. Nhìn chung, cá khoangcổ cam có giá cao hơn từ 3 - 5 lần so với các loài cákhoang cổ khác, dao động từ 200 - 400 ngàn đồng/con.Do nhu cầu thị trường cao trong khi khả năng cung cấpcon giống nhân tạo hạn chế đã làm gia tăng nguy cơ1cạn kiệt nguồn lợi tự nhiên của loài cá này [19].Luân trùng và Artemia được xem như là nguồnthức ăn đầu tiên cho giai đoạn ấu trùng của nhiềuloài cá nói chung và cá khoang cổ cam nói riêng[18]. Tuy đem lại những thành công đáng kể, nhưngnhững bất lợi mà thức ăn sống đem lại như: chấtlượng dinh dưỡng không ổn định, tiềm ẩn nhiều tácnhân gây bệnh, chi phí đầu tư cao và không chủđộng được nguồn giống. Do đó, việc kéo dài thờigian sử dụng các loại thức ăn sống cho giai đoạn ấutrùng cá không chỉ làm ảnh hưởng đến chất lượngcủa đối tượng nuôi mà còn tiêu tốn thời gian, côngsức và của cải cho người nuôi [14].ThS. Trần Thị Lê Trang, 2ThS. Trần Văn Dũng, 3ThS. Nguyễn Đức Kiên: Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha TrangTRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 191Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sảnTrong nuôi trồng thủy sản, việc chuyển đổi dầntừ các loại thức ăn sống sang thức ăn tổng hợp ởgiai đoạn sớm là hướng đi mà các nhà nuôi trồngđang nhắm tới nhằm giảm đáng kể áp lực và chiphí trong sản xuất thức ăn sống. Tuy nhiên, cơ sởlý thuyết để xác định thời điểm chuyển đổi thích hợpchưa được hiểu biết một cách khoa học và có hệthống. Bài viết này tổng hợp một số nghiên cứu cóliên quan làm cơ sở cho việc xác định thời điểmchuyển đổi thức ăn thích hợp trong ương nuôi ấutrùng cá khoang cổ cam A. percula trong thời gianngắn nhất mà không ảnh hưởng đến sinh trưởng vàtỉ lệ sống của ấu trùng.II. NỘI DUNG1. Các nghiên cứu tổ chức học về sự pháttriển ống tiêu hóa ở ấu trùng cá khoang cổ(Amphiprion spp.)Hiểu biết sâu sắc về sự phát triển ống tiêu hóaở từng giai đoạn phát triển của ấu trùng là chìa khóaquan trọng để ương nuôi ấu trùng thành công. Điềunày đặc biệt quan trọng để hiểu được nhu cầu dinhdưỡng của ấu trùng vì ở giai đoạn sớm này tỉ lệ ấutrùng chết rất cao, tốc độ tăng trưởng thấp do khảnăng tiêu hóa rất hạn chế [13], [26].Trong số các loài cá khoang cổ hiện nay, mộtsố loài có giá trị thương mại được lựa chọn cho cácnghiên cứu về tổ chức học của tuyến tiêu hóa, điển hìnhnhư: Amphiprion percula, Amphiprion melanopus,…Từ các kết quả này, người ta có thể thiết lập một chếđộ cho ăn hợp lí cho nhiều loài khoang cổ. Một trongsố các nghiên cứu đầu tiên ở đối tượng A. melanopusđược Green và Mc.Cor ...