Danh mục

Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 136.90 KB      Lượt xem: 40      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Công nghệ sản xuất giống cá giò Trong thời gian gần đây, cá giò đã được nuôi phổ biến trong lồng bè ở vùng biển các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An và Vũng Tàu. Chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh, từ con giống cỡ 20 -25g/con sau 1 năm nuôi có thể đạt 4 5kg/con. Ðây là đối tượng có rất nhiều triển vọng đối với nghề nuôi biển ở nước ta. Hiện nay, hầu hết các lồng nuôi chỉ sử dụng con giống từ nguồn sinh sản nhân tạo vì sự khan hiếm con giống...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)Công nghệ sản xuất giống cá giòTrong thời gian gần đây, cá giò đã được nuôi phổ biến tronglồng bè ở vùng biển các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh,Nghệ An và Vũng Tàu. Chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh,từ con giống cỡ 20 -25g/con sau 1 năm nuôi có thể đạt 4 -5kg/con. Ðây là đối tượng có rất nhiều triển vọng đối vớinghề nuôi biển ở nước ta. Hiện nay, hầu hết các lồng nuôi chỉsử dụng con giống từ nguồn sinh sản nhân tạo vì sự khanhiếm con giống loài này ở tự nhiên. Chính vì vậy, nhu cầucon giống đang ngày càng gia tăng ở nhiều địa phương.Từ năm 1997 - 1999 Viện Nghiên cứu Hải sản đã tiến hànhnghiên cứu sinh sản cá giò và đã thành công, sản xuất đượccá giò giống và biên soạn dự thảo quy trình sản xuất vào năm2000 (Ðề tài nghiên cứu cấp Nhà nước). Từ năm 2001 đếnnay, được sự tài trợ của Hợp phần SUMA và Dự án NORAD,Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I tiếp tục nghiên cứuhoàn thiện quy trình tại các địa điểm Hải Phòng, QuảngNinh, Nghệ An và đã thu được nhiều kết quả. Hiện nay, quytrình sản xuất giống cá giò đã ổn định và được đơn giản hoáđể áp dụng rộng rãi, kể cả tại các cơ sở không có điều kiệnđầu tư.Nuôi vỗ: Cá bố mẹ được nuôi vỗ trong lồng lưới. Trong điềukiện nuôi vỗ, cá giò ở tuổi thứ 2 có thể thành thục tuyến sinhdục.Sinh sản: Cho cá đẻ trong bể xi măng hoặc trong giai, ấptrứng và ương ấu trùng trong bể composite hoặc bể xi măng.Trứng được đẻ trong bể xi măng, kể cả tiêm hoặc không tiêmhoocmôn, cá giò thường đẻ vào ban đêm, tập trung vào thờigian từ 21 - 24 giờ. Trứng được thu ngay sau khi đẻ, táchriêng và ấp ở nhiệt độ 28-30oC. Sau 24 - 28 giờ, trứng sẽ nởthành cá bột có chiều dài 4 - 4,2mm.Thức ăn cho ấu trùng cá: ở ngày tuổi thứ 3, cá bắt đầu ăn sinhvật phù du cỡ nhỏ như luân trùng, ấu trùng hầu hà, naupliuscủa copepoda; tiếp đến là loại cỡ lớn như copepoda trưởngthành, artemia ấu trùng và trưởng thành, sau đó có thể luyệnchúng ăn thức ăn hỗn hợp. Giải quyết thức ăn tươi sống choấu trùng cá: nuôi tảo thuần trên túi ni lông; nuôi luân trùngthâm canh trên bể nhỏ; gây nuôi sinh vật phù du trên ao đấtvùng nước lợ. Vì vậy, việc áp dụng quy trình sản xuất giốngcá giò đã dễ; dàng, thuận lợi và có điều kiện mở rộng.Kết quả: Tỷ lệ cá giống tính từ khi nở cỡ 12-15cm đạt 4-5%,thời gian ương từ 50-60 ngày.Ðịa chỉ liên hệ: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I ÐìnhBảng-Từ Sơn - Bắc Ninh; Trạm Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷsản Cát Bà.Kỹ thuật nuôi cá bóp (cá giò)Vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển:- Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m.- Tránh nơi sóng to, gió lớn như sóng cao trên 2m và tốc độdòng chảy 1m/giây vì có thể làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn,làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.- Cần tránh những nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng màcó thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bãcũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.- Tốc độ chảy thích hợp từ 0,2-0,6m/giây.- Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6mg/lít, nhiệt độ 25-30 độ C,độ mặn từ 27-33 %o.- Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thảicông nghiệp, nước thải sinh hoạt và tàu bè. Nơi có thể xảy rahồng triều.Trở ngại trong nuôi lồng cá biển:Trong nuôi lồng cá biển, dù có nhiều ưu điểm, song, vẫn còntrở ngại trước mắt sau:Bẩn lồng: Lồng nuôi cá bị dơ bẩn nặng trong quá trình nuôilà vấn đề khó có thể tránh khỏi, đặc biệt là ở các vùng nhiệtđới. Chua and Tend (1980) đã ghi nhận lại rằng, do sự gây dơbẩn nhanh chóng của các sinh vật như hào, giun, rong, tảo ...mà làm lồng có mắc lưới 37 mm ở eo biển Penang bị giảmlưu thông nước đến 60% sau 2 tuần ngâm trong nước và đến87% sau 1 tháng. Lồng có mắc lưới 12,7 mm lưu thông nướcgiảm 93% sau 3 tuần hoạt động.Nguồn giống: Hiện tại, nguồn giống cung cấp cho nghề nuôicá lồng vẫn còn dựa chủ yếu vào khai thác tự nhiên. Tuynhiên, sản lượng khai thác không thể đáp ứng được nhu cầucon giống để mở rộng sản xuất hơn. Hơn nữa do tỷ lệ conđực (cá mú) trong quần thể tự nhiên ít hơn 5%, việc thu gomcá đực cho nghiên cứu và sản xuất giống cũng bị hạn chế.Thức ăn: Do việc nuôi cá lồng bị phụ thuộc vào nguồn thứcăn là cá tạp, khả năng cung cấp sẽ bị động và vì thế cho ănkhông đều. Thức ăn là cá tạp không đảm bảo đầy đủ dinhdưỡng cho cá nuôi, và cá tạp thối bẩn cũng dễ gây ra bệnhcho cá.Chất lượng nước thay đổi: Việc nuôi cá lồng còn bị ảnhhưởng mạnh bởi sự thay đổi dòng chảy sóng gió, và các yếutố khác như độ mặn, pH, độc tố do nhiễm bẩn, tảo nở hoa...Vì thế, trước khi nuôi, cần xem xét và chọn vị trí thích hợp.Địch hại: Nhiều quan sát cho thấy rằng nuôi cá trong lồng cónhiều địch hại như rắn biển mực, cá dữ phá lồng hay vàolồng gây hại cho cá nuôi, chim cũng là địch hại nguy hiểmcho cá khi lồng không được bảo quản kỹ. Bệnh cá: Cá biển nuôi lồng thường mắc một số bệnh ký sinh và vi khuẩn. Các ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: