Lâm Ấp Quốc
Số trang: 8
Loại file: doc
Dung lượng: 120.50 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lâm Ấp Quốc có thể coi là một vương quốc đã tồn tại từ khoảng năm 192 đến khoảng năm 605, tại vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Vương quốc này được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Chăm Pa độc lập.Từ nửa cuối thế kỷ thứ 2, phần lãnh thổ cực nam quận Nhật Nam trở nên khó trị, cư dân bản địa liên tục nổi lên chống lại nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơi tranh chấp thường xuyên giữa nhà Hán và dân địa phương (man di) như Khuất Đô Di,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lâm Ấp Quốc Lâm Ấp Lâm Ấp Quốc có thể coi là một vương quốc đã tồn tại từ khoảng năm 192 đếnkhoảng năm 605, tại vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Vương quốc này đượccoi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Chăm Pa độc lập. Lịch sử hình thành Từ nửa cuối thế kỷ thứ 2, phần lãnh thổ cực nam quận Nhật Nam trở nên khótrị, cư dân bản địa liên tục nổi lên chống lại nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơitranh chấp thường xuyên giữa nhà Hán và dân địa phương (man di) như Khuất Đô Di,Tây Đô Di. Năm 190, con của quan Công Tào, tên Khu Liên nổi lên giết thứ sử Chu Phù vàchiếm huyện thành. Năm 192, Khu Liên giết huyện lệnh (huyện trưởng) để đưa ông lêncai trị. Khu Liên cắt một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện TượngLâm để thành lập vương quốc riêng: sau này, Hậu Đường Thư gọi quốc gia nàylà Lâm Ấp Quốc. Nhà Hán gọi các dân tộc bản địa ở Quảng Châu (Quảng Đông), Giao Châu(Miền Bắc Việt Nam) là dân Bách Việt. Người Lâm Ấp cũng có thể là của dân BáchViệt (người Việt cổ), là một trong những tổ tiên của các dân tộc Việt Nam ngày nay.Lâm Ấp Độc lập là một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu gặp gỡ giữa hai nền vănminh Trung Quốc và Ấn Độ tại bán đảo Đông Đương. Đồng thời, đây là lần thứ hai(sau 3 nước Cao Lị, Bách Tế, Tân La ở quận Lạc Lãng tách ra khỏi lãnh thổ nhà Hán),một vùng thuộc lãnh thổ của thiên triều tức quận Nhật Nam có tự tách ra. Cơ chế xã hội Thời kỳ đầu, hệ thống kỹ thuật kiến trúc Lâm Ấp qua di tích và hiện vật khảo cổcho thấy ảnh hưởng Trung Quốc nhiều hơn ảnh hưởng Ấn Độ. Sau đó, thương nhânvà tu sĩ Ấn Độ bắt đầu giao tiếp dần với người Lâm Ấp. Những người Ấn này đã truyềncho giới quí tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và luôn cả cách thức tổ chứcxã hội. Khác với người Hoa, tổ chức xã hội của người Ấn mang tính phân quyền caohơn, phù hợp với nếp sống của người địa phương nên được giai cấp chi phối địaphương ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là ít dùng bạo lực để áp đặt văn hóa hayuy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác, kém hơn, mà để các thân hào địaphương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn minh và văn hóa của họ. Sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn trở thành chữ viết chính thức của các triềuvương. Các bi ký tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thưtrao đổi của Lâm Ấp với Trung Quốc thời đó được viết bằng Hồ tự (tức chữ Phạn)thay vì chữ Hán. Thời cuối Lâm Ấp (thời đầu Chăm Pa), văn hóa Ấn Độ trở thành vănhóa chính của vương quốc. Ấn Độ giáo và Phật giáo bắt đầu được truyền bá. Về chính trị: các vị vua thời cuối Lâm Ấp (thời đầu Chăm Pa) đều ghép tên mìnhvới một thần linh, thường là với Shiva (còn gọi là Isvara) để độc quyền cai trị. Uy quyềnvua thể hiện qua lọng màu trắng mà dân thường không được dùng. Thời đầu ChămPa, giúp việc cho vua là các quan lại trung ương và địa phương, được phân chia thành3 hạng: Đứng đầu là 2 vị tôn quan (senapati và tapatica, tức 2 tể tướng võ và văn) Tiếp theo là thuộc quan gồm 3 loại: luân đa đinh ( dandavaso bhatah - tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí đế (danay pinang - quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja - kế vương) Cuối cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân đội Lâm Ấp khoảng từ 40.000 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binhvà thủy binh. Triều đình Trung Quốc có lẽ cũng muốn chấm dứt tình trạng tranh chấp văn hóavà chính trị kéo dài quá lâu này nên đã chấp nhận sự ly khai một cách miễn cưỡng, họgọi tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay vì Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trướckia, và duy trì mối quan hệ tốt để thu nhận nhiều phẩm vật triều cống. Về danh xưng, Lâm Ấp chỉ là sự biến nghĩa của từ Tượng Lâm. Đối với nhàĐông Hán, danh xưng Lâm Ấp là một khinh miệt, vì đó chỉ là một phần đất nhỏ khôngquan trọng ở vùng cực nam để phải quan tâm trực tiếp. Thủy Kinh Chú viết: Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng để chỉ còn chữ Lâm Lâm Ấp Quốc là phiên âm Hán-Việt (phát âm theo thời nhà Đường) của từ ừ ừô / / n (phát âm theo tiếng Quan Thọai là Lin-yi-quo). Nguồn gốc của từ Lâm Ấp thì có hai giả thuyết. Thứ nhất là gọi tắt của từ Tượng Lâm Ấp (thủ đô Tượng Lâm) như Thủy Kinh Chú viết. Trong bi ký tiếng Phạn, đời sau, các vua Chăm Pa luôn ghi quốc hiệu là Campanagara (thành Chăm Pa),Campapura (Ấp Chăm Pa). Nhưng trong bi ký thời Lâm Ấp thì chưa tìm thấy quốc hiệu bằng tiếng Phạn nên ghi chép của Thủy Kinh Chú chưa có minh chứng. Hơn nữa, cư dân Lâm Ấp và cư dân Chăm Pa (Chiêm Thành) chưa chắc là một nên giả thuyết này còn yếu. Thứ hai là phiên âm của từ dừa (tiếng Chăm cổ gọi là Li-u). Thế kỷ thứ 5-6, nước Lâm Ấp (Quan Thoại: Lin-yi) đối diện với nước Phù Nam (Quan Thoại: Fu-nan). Đời sau, người Chăm Pa có 2 nhà vua là Narikera Vamsa (Vam, Da Tử tộc/bộ lạc Dừ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lâm Ấp Quốc Lâm Ấp Lâm Ấp Quốc có thể coi là một vương quốc đã tồn tại từ khoảng năm 192 đếnkhoảng năm 605, tại vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Vương quốc này đượccoi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Chăm Pa độc lập. Lịch sử hình thành Từ nửa cuối thế kỷ thứ 2, phần lãnh thổ cực nam quận Nhật Nam trở nên khótrị, cư dân bản địa liên tục nổi lên chống lại nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơitranh chấp thường xuyên giữa nhà Hán và dân địa phương (man di) như Khuất Đô Di,Tây Đô Di. Năm 190, con của quan Công Tào, tên Khu Liên nổi lên giết thứ sử Chu Phù vàchiếm huyện thành. Năm 192, Khu Liên giết huyện lệnh (huyện trưởng) để đưa ông lêncai trị. Khu Liên cắt một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện TượngLâm để thành lập vương quốc riêng: sau này, Hậu Đường Thư gọi quốc gia nàylà Lâm Ấp Quốc. Nhà Hán gọi các dân tộc bản địa ở Quảng Châu (Quảng Đông), Giao Châu(Miền Bắc Việt Nam) là dân Bách Việt. Người Lâm Ấp cũng có thể là của dân BáchViệt (người Việt cổ), là một trong những tổ tiên của các dân tộc Việt Nam ngày nay.Lâm Ấp Độc lập là một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu gặp gỡ giữa hai nền vănminh Trung Quốc và Ấn Độ tại bán đảo Đông Đương. Đồng thời, đây là lần thứ hai(sau 3 nước Cao Lị, Bách Tế, Tân La ở quận Lạc Lãng tách ra khỏi lãnh thổ nhà Hán),một vùng thuộc lãnh thổ của thiên triều tức quận Nhật Nam có tự tách ra. Cơ chế xã hội Thời kỳ đầu, hệ thống kỹ thuật kiến trúc Lâm Ấp qua di tích và hiện vật khảo cổcho thấy ảnh hưởng Trung Quốc nhiều hơn ảnh hưởng Ấn Độ. Sau đó, thương nhânvà tu sĩ Ấn Độ bắt đầu giao tiếp dần với người Lâm Ấp. Những người Ấn này đã truyềncho giới quí tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và luôn cả cách thức tổ chứcxã hội. Khác với người Hoa, tổ chức xã hội của người Ấn mang tính phân quyền caohơn, phù hợp với nếp sống của người địa phương nên được giai cấp chi phối địaphương ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là ít dùng bạo lực để áp đặt văn hóa hayuy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác, kém hơn, mà để các thân hào địaphương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn minh và văn hóa của họ. Sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn trở thành chữ viết chính thức của các triềuvương. Các bi ký tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thưtrao đổi của Lâm Ấp với Trung Quốc thời đó được viết bằng Hồ tự (tức chữ Phạn)thay vì chữ Hán. Thời cuối Lâm Ấp (thời đầu Chăm Pa), văn hóa Ấn Độ trở thành vănhóa chính của vương quốc. Ấn Độ giáo và Phật giáo bắt đầu được truyền bá. Về chính trị: các vị vua thời cuối Lâm Ấp (thời đầu Chăm Pa) đều ghép tên mìnhvới một thần linh, thường là với Shiva (còn gọi là Isvara) để độc quyền cai trị. Uy quyềnvua thể hiện qua lọng màu trắng mà dân thường không được dùng. Thời đầu ChămPa, giúp việc cho vua là các quan lại trung ương và địa phương, được phân chia thành3 hạng: Đứng đầu là 2 vị tôn quan (senapati và tapatica, tức 2 tể tướng võ và văn) Tiếp theo là thuộc quan gồm 3 loại: luân đa đinh ( dandavaso bhatah - tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí đế (danay pinang - quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja - kế vương) Cuối cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân đội Lâm Ấp khoảng từ 40.000 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binhvà thủy binh. Triều đình Trung Quốc có lẽ cũng muốn chấm dứt tình trạng tranh chấp văn hóavà chính trị kéo dài quá lâu này nên đã chấp nhận sự ly khai một cách miễn cưỡng, họgọi tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay vì Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trướckia, và duy trì mối quan hệ tốt để thu nhận nhiều phẩm vật triều cống. Về danh xưng, Lâm Ấp chỉ là sự biến nghĩa của từ Tượng Lâm. Đối với nhàĐông Hán, danh xưng Lâm Ấp là một khinh miệt, vì đó chỉ là một phần đất nhỏ khôngquan trọng ở vùng cực nam để phải quan tâm trực tiếp. Thủy Kinh Chú viết: Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng để chỉ còn chữ Lâm Lâm Ấp Quốc là phiên âm Hán-Việt (phát âm theo thời nhà Đường) của từ ừ ừô / / n (phát âm theo tiếng Quan Thọai là Lin-yi-quo). Nguồn gốc của từ Lâm Ấp thì có hai giả thuyết. Thứ nhất là gọi tắt của từ Tượng Lâm Ấp (thủ đô Tượng Lâm) như Thủy Kinh Chú viết. Trong bi ký tiếng Phạn, đời sau, các vua Chăm Pa luôn ghi quốc hiệu là Campanagara (thành Chăm Pa),Campapura (Ấp Chăm Pa). Nhưng trong bi ký thời Lâm Ấp thì chưa tìm thấy quốc hiệu bằng tiếng Phạn nên ghi chép của Thủy Kinh Chú chưa có minh chứng. Hơn nữa, cư dân Lâm Ấp và cư dân Chăm Pa (Chiêm Thành) chưa chắc là một nên giả thuyết này còn yếu. Thứ hai là phiên âm của từ dừa (tiếng Chăm cổ gọi là Li-u). Thế kỷ thứ 5-6, nước Lâm Ấp (Quan Thoại: Lin-yi) đối diện với nước Phù Nam (Quan Thoại: Fu-nan). Đời sau, người Chăm Pa có 2 nhà vua là Narikera Vamsa (Vam, Da Tử tộc/bộ lạc Dừ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lâm ấp lịch sử chăm pa vương quốc chăm pa lâm ấp quốc lịch sử Tượng lâmTài liệu liên quan:
-
SỰ HÌNH THÀNH VƯƠNG QUỐC CHĂM PA VÀ PHÙ NAM
26 trang 18 0 0 -
8 trang 17 0 0
-
7 trang 15 0 0
-
13 trang 13 0 0
-
21 trang 12 0 0
-
5 trang 11 0 0
-
42 trang 11 0 0
-
16 trang 10 0 0
-
13 trang 9 0 0
-
Nghiên cứu lịch sử các thời kỳ Việt Nam (Tập 1): Phần 2
332 trang 9 0 0