Lễ hội Dinh Cô Cũng như "Chúa Hòn" ở Kiên Giang, "Núi Sam" ở An Giang, tên gọi "Dinh Cô" ở Long Hải (Đồng Nai trước đây, nay thuộc Bà Rịa- Vũng Tàu) đã trở nên quen thuộc với khách thập phương.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lễ hội Dinh Cô Lễ hội Dinh CôCũng như Chúa Hòn ở Kiên Giang, Núi Sam ở An Giang, tên gọi Dinh Cô ởLong Hải (Đồng Nai trước đây, nay thuộc Bà Rịa- Vũng Tàu) đã trở nên quenthuộc với khách thập phương.Là ngôi miếu nhỏ thờ một trinh nữ chết nước, nằm trên mỏm đồi lộng gió ở bãitắm Long Hải. Dinh Cô được dựng lên bằng lòng tin, sự tín ngưỡng vốn có lâu đờitrong nhân dân. Tương truyền, 186 năm trước, xác một người con gái khoảng 16tuổi dạt vào bãi, tên cô là Lê Thị Hồng Thuỷ, quê ở Phan Rang, theo cha Lê VănKhương dong ghe bầu xuôi ngược Trung - Nam để đánh bắt cá và trao đổi hàngđan lát bằng tre. Mỗi lần ghe bầu qua vùng biển Long Hải, Cô nhìn cảnh sơn thuỷhữu tình, thường ao ước được ở lại đây chung sống. Một đêm bão tố, trời chiềulòng Cô, đưa Cô theo sóng biển dạt vào, nằm lại trên bãi cát trắng xoá, nơi mà Côtừng mong ước. Cát đùn lên che chở, sóng vỗ muôn nghìn lời ru cho Cô yên giấc.Dân làng xem Cô là nữ thần thiêng liêng nên lập mộ trên đồi, dựng miếu thờ bêncạnh. Đầu tiên chỉ là một nấm mộ đất, miếu tre lá. Miếu và mộ thay đổi dần theosự linh ứng ngày càng lan rộng. Một lần (vào khoảng năm 1966), miếu phát hoả,được trùng tu thành ngôi đền khang trang hơn. Đầu năm 1990, Dinh Cô lại đượctrùng tu bằng kinh phí quyên góp của khách thập phương, trở thành một dinh thựkiên cố như hiện nay.Từ khi có Dinh Cô để hương khói, ngư dân Long Hải có thêm sức mạnh tinh thầntrong lồng ngực để đương đầu với vất vả, gian nan. Thành tích của mình, dân làngthường gán cho Cô, dệt thành nhiều huyền thoại thi vị, chú yếu là chuyện Cô ứnglinh ứng giúp người hiền vượt khó khăn. Sự tôn kính dành cho Cô đã trở thành tậpquán của người Long Hải, trong đó ẩn chứa khát vọng và niềm tin về cuộc sốngthanh bình, thịnh vượng.Hàng năm, lễ hội thường mở trong 3 ngày (10 - 11 - 12 tháng 2 âm lịch), suốt cảngày cả đêm. Hàng chục vạn khách thập phương từ miền Tây, thành phố Hồ ChíMinh, Lâm Đồng, Bình Thuận... lũ lượt kéo về Long Hải dự Giỗ Cô, chen chúcnhau trong rừng dương, trên bãi cát, ở những hành lang, khoảng trống để nghỉqua đêm, dự trọn 3 ngày hội. Có người phải đến trước mấy ngày mới mong kiếmđược chỗ trọ. Có gia đình mang theo cả con cái cả đồ dùng nội trợ để ăn nghỉ tạichỗ. Đêm buông màn, rừng dương lao xao, sóng biển rì rào, lấp loáng trăng, lồnglộng gió... cảnh hữu tình khiến người ta quên vất vả mà vui với cuộc hành hươngmang tính chất dã ngoại.Từ rạng sáng ngày 10 tháng 02 âm lịch, người ta đã bắt đầu viếng Cô. Mỗi ngườithường cầm trong tay một nhành huệ trắng tượng trưng cho sự thanh khiết. Giớitrẻ ham vui, các cụ già sùng tín đều chen nhau vượt 187 bậc đờ để dâng hươngxin lộc nơi chính điện. Đêm 10 và 11 là đêm hội hoa đăng. ánh đèn sáng rực hoàcùng ánh trăng. Hàng vạn ghe thuyền quay mũi về Dinh chầu Cô, tiếng chiêng,tiếng trống rộn ràng thâu đêm. Lễ chính được tổ chức từ rạng sáng ngày 12. Từchính điện, đoàn người chỉnh tề cờ quạt ra bãi, lên thuyền, ra khơi làm lễ NghinhCô. Lễ Nghinh Cô được cử hành long trọng. Vị Chánh bái dẫn đầu, đoàn học tròlễ tiếp bước, có cờ xí, lọng che, hoa đăng rực rỡ. Một chiếc ghe to đặt bày hướngán được xem là ghe dành Nghinh Cô. Ghe được hộ tống bởi vài chục chiếc ghekhác. Đoàn ghe nối nhau ra khơi trong tiếng chiêng trống vang trời. Đến Mũi Nhỏ,nơi có ngôi mộ Cô, đoàn người xuống ghe lên viếng mộ, nghênh đón Cô về Dinh.Đặc biệt, trong lễ Nghinh Cô, còn duy trì được hình thức diễn xướng Hát bảtrạo. Theo TS Tôn Thất Bình, Hát bả trạo có nghĩa là hát có nắm mái chèo, mộtthể loại dân ca nghi lễ phổ biến của cư dân vùng biển từ Bình Trị Thiên (cũ) đếnBình Thuận. Ngư dân thường tổ chức hát bả trạo trong nghi lễ đưa ma Cá Ông. ởLong Hải, hát bả trạo lại gắn với lễ Nghinh Cô. Hình thức diễn xướng không kháchát bả trạo của cư dân vùng biển Nam Trung bộ, cũng có tổng khoang (hoặc tổngthương), tổng mũi, tổng lái và đám bạn chèo từ 12 đến 16 người. Các bạn chèo vàcác tổng đề trong trang phục cổ truyền, vừa hát vừa diễn (xướng - xô) mô phỏngthao tác của người đi biển vượt ngàn trùng sóng gió. Chỉ khác ở nội dung bài hátngưỡng vọng Cô (thay vì ca ngợi, thương tiếc Cá Ông) và lời nguyện cầu cho trờilên biển lặng, tôm cá đầy khoang. Làn điệu và bài hát cho thấy hát bả trạo NghinhCô ở Long Hải phóng khoáng và trữ tình hơn lối hát nặng nỗi âu lo của vùng biểnNam Trung bộ. Câu lối của một tổng mũi ở Quảng Nam:Mây giăng mù mịtGiông chớp sáng loàTừ Ải Vân cho đến Sơn TràCũng câu lối kiểu ấy, hát bả trạo ở Long Hải nhẹ nhàng, sảng khoái hơn:Mây giăng đằng mũiGió đuổi đằng sauMái chèo khua nước lao xaoNhanh nhanh lên nào, khoang thuyền đầy cá.Có lẽ, vùng biển trù phú, dễ làm ăn đã tạo sinh khí hứng khởi cho câu hát và từ đódiễn xướng nghi lễ của hát bả trạo mang tính sinh hoạt trữ tình nhiều hơn. Dẫusao, sự xuất hiện hát bả trạo trong lễ hội Dinh Cô c ùng với truyền thuyết về Côcũng đã hé mở cho thấy nguồn gốc của cư dân Long Hải và sắc thái văn hoá củavùng sông nước.Thú vị nhất của khách hữu ...