– Trong một thập kỷ qua, các nhà khoa học, nghiên cứu về lịch sử tự nhiên trên thế giới đã có nhiều phát hiện loài mới cùng những điều thú vị trong đời sống hoang dã
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Loài mới qua một thập kỷ khám phá Loài mới qua một thập kỷ khám phá (Chuyên mục Địa Lý tự nhiên)– Trong một thập kỷ qua, các nhà khoa học, nghiên cứu về lịch sử tự nhiên trên thếgiới đã có nhiều phát hiện loài mới cùng những điều thú vị trong đời sống hoangdã. Đúc kết những thành tựu này, Hãng BBC (Anh) phối hợp với Tổ chức Bảo tồnquốc tế (CI) đã sản xuất bộ phim tài liệu “Thập kỷ khám phá”, nhằm giới thiệunhững loài mới ấn tượng nhất được phát hiện trong 10 năm qua. Bộ phim đã đượccông chiếu ngày 14/12/2010 trên kênh BBC2. Dưới đây là một số loài tiêu biểu.Tháng 12/2010, các nhà khoa học Anh cho biết đã phát hiện một loài vượn cáomới sinh sống tại các cánh rừng khô Madagascar. Chúng được phân biệt với cácloài khác bởi một sọc hình chữ Y ở phần đầu phía trước, chân to, lưỡi dài, và đượcchuyên gia linh trưởng Russ Mittermeier đặt tên là vượn cáo đầu vằn chẻ. Hiện naycòn 4 chủng khác của vượn cáo (giống Phaner), và loài này được xem là thứ 5.Lười lùn ba ngón Bradypus pygmaeus được phát hiện năm 2001, chỉ sống tại hònđảo nhỏ Isla Escudo de Veraguas (3,4km2) ngoài khơi bờ biển Panama, Trung Mỹ.Hiện chỉ còn khoảng 200 cá thể sống trên đảo này.Cá mập tre Hemiscyllium galei hay còn gọi là cá mập “đi bộ” được tìm thấy năm2006 tại vịnh Cenderawasih, phía Tây tỉnh Papua, Indonesia. Loài cá mập này cóthể bơi khi cần thiết, nhưng nó thường sử dụng các vây ngực để “đi bộ” và tìm thứcăn dọc theo các rạn san hô.Sengi mặt xám hay chuột chù voi được khám phá lần đầu tiên năm 2006 tại côngviên quốc gia Uzungwa thuộc Tanzania, châu Phi. Nhà khoa học Francesco Roverothuộc Bảo tàng Lịch sử tự nhi ên Trento, miền bắc Ý đã “chộp” được hình loài nàynhờ đặt bẫy ảnh tự động tại Uzungwa. Sengi mặt xám có kích thước cơ thể tươngđương một con thỏ, nặng 700g và có cái mũi dài, linh hoạt như vòi voi. Thật kỳ lạ,theo các nhà khoa học, chuột chù voi không có họ hàng với chuột chù nhưng lại cótổ tiên chung với voi.Được phát hiện từ năm 1939 nhưng phải 70 năm sau các nhà khoa học tại ViệnNghiên cứu Hải dương Monterey Bay (MBARI) ở California, Mỹ mới ghi hình đượcloài cá mắt thùng (barreleye) - một loài cá rất lạ có đầu trong suốt và đôi mắt hìnhống. Cá mắt thùng sống thích nghi với môi trường tối tăm dưới đáy biển, nơi ánhsáng mặt trời không thể tới được. Tuy nhiên, sắc tố màu xanh trong mắt chúng cóthể hấp thu ánh sáng mặt trời, giúp cá mắt thùng dễ dàng phát hiện con mồi.Sứa đỏ khổng lồ Tiburonia granrojo, được công bố năm 2003. Các nhà khoa học tạiViện Nghiên cứu Hải dương Monterey Bay (MBARI) ở California, Mỹ đã quay đượcloài sứa đỏ khổng lồ này ở độ sâu hơn 3.000m dưới vùng biển Thái Bình Dương.Chúng có bề ngang cơ thể khoảng 1m, không có xúc tu, thay vào đó là những “cánhtay béo” để bắt mồi. Do chúng sống bí ẩn nên hiện nay các nhà khoa học chưa biếtchúng ăn thức ăn gì.Cây nắp ấm khổng lồ Nepenthes palawanensis được phát hiện năm 2010 trên đỉnhnúi cao Sultan thuộc đảo Palawan, Philippines. Loài thực vật đặc biệt này pháttriển một chiếc “nắp ấm” khổng lồ chứa đầy mật ngọt để dẫn dụ côn trùng. Nhữngkẻ xấu số đậu trên thành ấm trơn trượt này sẽ bị đẩy xuống đáy bình và lập tức bịchiếc “nắp ấm” tiêu hóa, hấp thụ chất dinh dưỡng nuôi sống cây.Tắc kè ngón cong Cyrtodactylus macrotuberculatus được phát hiện lần đầu tiênnăm 2008 tại một hòn đảo ngoài khơi Tây Bắc Malaysia. Nó có thị lực đáng kinhngạc, do đó dễ dàng săn mồi dưới tầng đáy rừng vào ban đêm. Gần đây, các nhàkhoa học lại phát hiện nó sống trong một hang đá vôi cũng tại khu vực trên. Màusắc cơ thể của loài này tại hai nơi cư trú có vài điểm khác biệt. Các nhà khoa học tinrằng trải qua quá trình tiến hóa, loài tắc kè này đã di chuyển vào hang để tránhnhững con rắn độc trong rừng.Côn trùng hình que khổng lồ Phobaeticus chani, dài khoảng 56,6cm, được tìm thấyở công viên quốc gia Gunung Kinabalu thuộc đảo Borneo, địa phận bang Sabah,Malaysia. Các nhà khoa học cho biết loài này có kích thước to lớn nhưng lại sốngtrên vòm rừng nhiệt đới nên quá trình tìm kiếm chúng rất khó khăn, và do đó córất ít thông tin về chúng.Khỉ Rungwecebus kipunji được phát hiện từ những năm 1920 và được nhà sinhhọc Tim Davenport (Hiệp hội Bảo tồn Động vật hoang dã - WCS) theo dõi trongsuốt năm 2003 tại khu vực núi Rungwe, Tanzania. Trải qua quá trình nghiên cứuvà phân tích ADN, các nhà khoa học cho biết loài khỉ này thuộc một chi hoàn toànmới. Kết quả điều tra mới nhất cho biết, khỉ Rungwecebus kipunji chỉ còn 1.117 cáthể trong hoang dã, được phân loại ở mức “cực kỳ nguy cấp” trong sách đỏ củaHiệp hội Liên minh Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế (IUCN).Lan tím khổng lồ Phragmipedium Kovachii được phát hiện năm 2001 khi bị mộtthợ săn phong lan đem bán ở một lề đường tại Peru. Loài lan tím khổng lồ này cóbề ngang cánh tới 20cm, có nguồn gốc từ dãy núi Andes, địa phận Peru. ...