Danh mục

Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật Âm nhạc Nhạc hợp xướng tại Tp. Hồ Chí Minh trước và sau năm 1975

Số trang: 164      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.01 MB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luận án tập trung vào sự khảo sát kỹ thuật biểu diễn của các ca đoàn (tôn giáo) cũng như các ban hợp xướng tại thành phố và giải quyết một số vấn đề về âm nhạc học đối với những sáng tác hợp xướng được chọn thuộc nhiều thể loại khác nhau. Qua đó, không chỉ nhìn thấy được những ưu điểm mà còn tìm ra những tồn đọng về mặt kỹ thuật làm cản trở việc phát triển âm nhạc hợp xướng tại Tp. Hồ Chí Minh để đề nghị những biện pháp giải quyết cần thiết, góp phần vào việc đưa hợp xướng trở thành một phương tiện hiệu quả trong việc giáo dục nhân bản.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật Âm nhạc Nhạc hợp xướng tại Tp. Hồ Chí Minh trước và sau năm 1975 1 MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài Hợp xướng có lịch sử từ rất lâu đời. Người Hy Lạp Cổ đại đã biết dùng hợpxướng để hát đệm cho những động tác trình diễn trên sân khấu1. Đầu thời Trung cổngười Ý dùng những bài hát Bình ca (hay ca khúc Gregorian) để đệm cho các độngtác phục vụ cho nghi thức tôn giáo (nên họ gọi những ca khúc này là thánh caphụng vụ). Đến thời kỳ Phục hưng, một loại thánh ca phụng vụ khác ra đời gọi làthánh ca đa âm, chiếm lĩnh hầu hết hoạt động sáng tác cho hợp xướng trong thời kỳnày. Sang thời kỳ Baroque (1600 – 1750), có thể nói, những tác phẩm hợp xướngmang đề tài tôn giáo thuộc các thể loại cantata, motet, và passion phát triển mạnhmẽ đã đưa nhạc hợp xướng bước vào thời hoàng kim. Nhưng các nhà soạn nhạc thờiCổ điển (cuối thế kỷ XVIII) bắt đầu say mê với những khả năng diễn đạt mới củaâm nhạc giao hưởng và khí nhạc, nên phần đông đã quay lưng lại với nhạc hợpxướng. Sang thế kỷ XIX, trên các sân khấu thế tục phương Tây xuất hiện nhiều tácphẩm hợp xướng mang đề tài tôn giáo. Những tác phẩm này thường lớn, có kết hợpvới dàn nhạc và không thích hợp với việc sử dụng trong các nghi thức tôn giáo nhưtrước đây nữa. Bước vào thế kỷ XX, nhạc hợp xướng tiếp tục thoái trào, đa số cácnhà soạn nhạc tiêu biểu đều nghiêng về khí nhạc. Cùng với sự ra đời của nền Tânnhạc Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ này, các hình thức hợp xướng đơn giảnnhư: tốp ca, đồng ca, hợp ca,… đã có mặt. Tuy nhiên phải đến những thế hệ nhạc sĩđầu tiên của Việt Nam được đi nước ngoài du học, nhạc hợp xướng mới thực sựđược hình thành. Từ đầu thế kỷ XXI, nhạc hợp xướng bắt đầu có dấu hiệu đượcphục hồi, phù hợp với xu hướng phát triển của lối sống và làm việc theo tinh thầntập thể trong xã hội hiện đại.1 Thuật ngữ hợp xướng (chorus) ngày nay có nguồn gốc từ chữ “χορός hay khoros” (tiếng Hy Lạp). Trongkịch Cổ đại, người Hy Lạp dùng từ này để chỉ một nhóm diễn viên (thường gồm từ 12 đến 50 người, có khimang cả mặt nạ) hát đồng âm hoặc nói phần lời dành cho mình để đệm theo các hành động kịch. 2 Trong quá trình phát triển đó, hợp xướng đã tác động mạnh đến xã hội do tínhchất tập thể, “làm việc theo đội nhóm” và là một phương tiện hữu hiệu để chuyểntải những thông điệp đạo đức, nhân bản, chính trị hơn bất cứ hình thức âm nhạc nàokhác. Cùng với nhạc thính phòng, giao hưởng, nhạc hợp xướng tạo nên nét văn hóatiêu biểu cho một xã hội văn minh, hiện đại; vì thế, chúng ta cần nghiên cứu quátrình phát triển (về sáng tác và biểu diễn) hợp xướng một cách khoa học. Đó là mộtlý do để chúng tôi chọn đề tài luận án liên quan đến nhạc hợp xướng Việt Nam. Trên thế giới, quá trình phát triển hợp xướng luôn tồn tại song song hai nềnnhạc: tôn giáo và thế tục. Có lúc nền nhạc này phát triển thì nền nhạc kia suy thoái.Với đặc điểm lịch sử riêng, ngay từ buổi đầu của nền Tân nhạc Việt Nam đến trướcnăm 1975, nhạc hợp xướng ở miền Nam nói chung và ở Sài Gòn nói riêng phát triểnnhiều trong lãnh vực nhà thờ. Sau năm 1975, nhạc hợp xướng thế tục phát triểnmạnh hơn và mang tính chuyên nghiệp cao hơn. Kể từ sau thời kỳ đổi mới, nhạchợp xướng nhà thờ phía Nam mới hồi sinh. Và cũng từ đó hai nền âm nhạc hợpxướng này phát triển song song như xu hướng thế giới. Thành phố Hồ Chí Minhkhông chỉ là trung tâm phát triển về kinh tế của miền Nam mà còn về văn hóa, nghệthuật cũng như âm nhạc. Đó là lý do để chúng tôi tập trung đề tài của luận án vàohoạt động sáng tác và biểu diễn hợp xướng tại Tp. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, với kinhnghiệm cá nhân trong nhiều năm chỉ huy hợp xướng và dàn nhạc tại thành phố,chúng tôi quyết định thực hiện luận án với đề tài: “Nhạc hợp xướng tại Tp. Hồ ChíMinh trước và sau năm 1975”.2. Lịch sử đề tài Âm nhạc mới Việt Nam bước đi những bước chập chững từ những thập niênđầu thế kỷ XX. Theo GS NSND Trọng Bằng, “Ca khúc hợp xướng đã xuất hiệntrong thời gian kháng chiến chống Pháp ở các tác giả Việt Nam như....” [41, tr.15].Nhưng cũng có thể cho rằng ca khúc hợp xướng đã có nguồn gốc từ thể loại hànhkhúc và ca khúc tập thể trước đó [Sđd, tr.13]. Hoặc nếu xét cả âm nhạc tôn giáo, thìchúng ta có thể coi nhạc hợp xướng Việt Nam có điểm xuất phát vào khoảng năm 31911 với bản thánh ca hợp xướng Giáng Sinh “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” củaLinh mục Đoàn Quang Đạt (tức Phao lô Đạt) [149, tr.30]. Đã có một số công trìnhnghiên cứu về tân nhạc Việt Nam từ những buổi đầu nhưng chỉ đề cập nhiều đến cakhúc. Cũng có những nghiên cứu về âm nhạc hợp xướng nhưng đa phần là nhữngbài báo, tập trung nhiều vào việc thông tin về hoạt động hợp xướng hơn là đề cậpđến mặt âm nhạc học của công việc sáng tác và biểu diễn. Cho đến nay chúng tôichỉ ghi nhận được một số khiêm ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: