Mô hình cho Ngân hàng Trung ương
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 379.46 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cùng tham khảo tài liệu "Mô hình cho Ngân hàng Trung ương", tài liệu này sẽ giúp bạn nắm bắt 1 số kiến thức về ngân hàng trung ương, mục tiêu NHTW, chính sách tiền tệ,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình cho Ngân hàng Trung ương Mô hình nào cho Ngân hàng Trung ương? Sau 10 năm, vấn đề này lại được đặt ra: Làm thế nào để Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát chặt tình hình tiền tệ, góp phần giảm thiểu tác động xấu của khủng hoảng? Cách đây 10 năm, khi Luật Ngân hàng Nhà nước được bàn thảo để hoàn thiện, câu chuyện Ngân hàng Trung ương (NHTW) của Việt Nam phải như thế nào để đảm bảo vị trí đặc biệt của nó trong nền kinh tế đã được đặc biệt quan tâm. Thế nhưng, khi cơn bão khủng hoảng tài chính châu Á lan tràn trong khu vực, thì những câu chuyện về tính độc lập, tính minh bạch, hay mô hình tổ chức... đã được gác lại, thay vào đó là các vấn đề làm thế nào để NHTW có thể kiểm soát chặt tình hình tiền tệ, góp phần giảm thiểu tác động xấu của khủng hoảng. Giờ đây, những vấn đề từ cơ bản nhất, như mục tiêu của một NHTW phải là gì, NHTW có nên là một cơ quan độc lập với Chính phủ hay không... đều được nhắc lại một cách quyết liệt. Cũng với chủ đề này, trong tuần qua, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức Hội thảo về cải cách Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với sự có mặt của đông đảo các chuyên gia tài chính quốc tế và trong nước. Theo các chuyên gia quốc tế, không có một mô hình chuẩn nào cho một NHTW, bởi mỗi nước có những đặc thù riêng. Có lẽ bởi vậy, các tham luận phần nhiều nêu ra kinh nghiệm các nước khác nhau và dừng lại ở mức gợi ý chính sách. Mục tiêu phải rạch ròi Theo ông Masahiko Takeda, Cố vấn cao cấp Vụ châu Á - Thái Bình Dương của IMF, chính sách của Việt Nam nhằm rất nhiều mục tiêu, như tăng trưởng, tạo công ăn việc làm, ổn định giá cả, phát triển kinh tế - xã hội... Ông Takeda cho rằng, mục tiêu chính sách như vậy là chung chung, do đó “cần đặt mục tiêu cụ thể hơn và chỉ là các mục tiêu tài chính/tiền tệ, thậm chí cụ thể hơn nữa để tránh xung đột tiềm ẩn giữa chúng”. Còn theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện quá rộng, đặc biệt, chúng xung đột nhau và không có trật tự ưu tiên rõ rệt. Đây không phải là vấn đề mới. Sự xung đột được đề cập nhiều trong hai năm qua khi chỉ số giá tiêu dùng tăng cao - đó là xung đột giữa thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát. Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là hai mục tiêu mâu thuẫn nhau và NHTW nên có sự lựa chọn một mục tiêu cụ thể hoặc tối thiểu là ưu tiên mục tiêu nào hơn trong ngắn hạn, hoặc trong mỗi thời kỳ, chẳng hạn như ở thời điểm này, sẽ rất khó thúc đẩy tăng trưởng cao trong điều kiện lạm phát phải thấp. Theo ông Lars Nyberg, Phó Thống đốc Ngân hàng Riskbank (Thụy Điển), NHTW mỗi nước đều đặt nhiều mục tiêu khác nhau, chẳng hạn như Mỹ quy định Cục Dự trữ liên bang có mục tiêu “tạo công ăn việc làm tối đa”. Vấn đề việc làm cũng được đề cập trong hoạt động của NHTW Anh. Nhưng qua phân tích cũng như kinh nghiệm của mình, ông Lars Nyberg cho rằng, nhiệm vụ cơ bản của NHTW là nhằm duy trì ổn định giá cả, tăng sự ổn định trong hệ thống tài chính, tức là cố gắng ổn định nền kinh tế. Các NHTW mỗi nước có khác nhau, nhưng hầu hết đều nhấn mạnh những yếu tố này. Yếu tố thúc đẩy tăng trưởng không được ông Lars Nyberg nhấn mạnh trong mục tiêu của NHTW, bởi theo ông, chính sách tiền tệ không thể tác động trực tiếp đến tăng trưởng trong dài hạn. Mức tăng trưởng dài hạn của một quốc gia được xác định bởi diễn biến về số lượng nhân công, nguồn vốn và tốc độ phát triển công nghệ. “Ảnh hưởng lớn nhất của chính sách tiền tệ là góp phần gián tiếp vào những diễn biến thuận lợi của nền kinh tế bằng cách đảm bảo rằng, lạm phát được duy trì ở mức thấp, ổn định và đạt được sự ổn định tài chính”, ông Lars Nyberg nói. Xác định nhiệm vụ của NHTW theo hướng kiểm soát lạm phát đã được đề cập thông qua một nghiên cứu có giá trị tham khảo tốt của một chuyên viên thuộc Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) công bố năm ngoái. Kết quả nghiên cứu hơn 10 năm cho thấy kết quả tương tự như nhận định của ông Lars Nyberg về quan hệ giữa chính sách tiền tệ và tăng trưởng. Còn theo ông Vũ Thế Vậc, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Ngân hàng Nhà nước), mục tiêu chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là NHTW, là ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước vẫn cần thiết phải thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, như tăng trưởng kinh tế. “Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước luôn theo đuổi mục tiêu chính khi mục tiêu của mình có xung đột với mục tiêu kinh tế vĩ mô khác”, ông Vậc nói. Với những nhận định như vậy, nếu áp dụng vào thời điểm 2 năm vừa qua khi lạm phát cao thì có thể nói, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải hướng vào mục tiêu giảm lạm phát, chứ không phải là thúc đẩy tăng trưởng, tức là khác với việc cố cân bằng hai mục tiêu theo công thức “lạm phát < tăng trưởng thực” như Ngân hàng Nhà nước đang làm hiện nay. Độc lập là ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mô hình cho Ngân hàng Trung ương Mô hình nào cho Ngân hàng Trung ương? Sau 10 năm, vấn đề này lại được đặt ra: Làm thế nào để Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát chặt tình hình tiền tệ, góp phần giảm thiểu tác động xấu của khủng hoảng? Cách đây 10 năm, khi Luật Ngân hàng Nhà nước được bàn thảo để hoàn thiện, câu chuyện Ngân hàng Trung ương (NHTW) của Việt Nam phải như thế nào để đảm bảo vị trí đặc biệt của nó trong nền kinh tế đã được đặc biệt quan tâm. Thế nhưng, khi cơn bão khủng hoảng tài chính châu Á lan tràn trong khu vực, thì những câu chuyện về tính độc lập, tính minh bạch, hay mô hình tổ chức... đã được gác lại, thay vào đó là các vấn đề làm thế nào để NHTW có thể kiểm soát chặt tình hình tiền tệ, góp phần giảm thiểu tác động xấu của khủng hoảng. Giờ đây, những vấn đề từ cơ bản nhất, như mục tiêu của một NHTW phải là gì, NHTW có nên là một cơ quan độc lập với Chính phủ hay không... đều được nhắc lại một cách quyết liệt. Cũng với chủ đề này, trong tuần qua, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức Hội thảo về cải cách Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với sự có mặt của đông đảo các chuyên gia tài chính quốc tế và trong nước. Theo các chuyên gia quốc tế, không có một mô hình chuẩn nào cho một NHTW, bởi mỗi nước có những đặc thù riêng. Có lẽ bởi vậy, các tham luận phần nhiều nêu ra kinh nghiệm các nước khác nhau và dừng lại ở mức gợi ý chính sách. Mục tiêu phải rạch ròi Theo ông Masahiko Takeda, Cố vấn cao cấp Vụ châu Á - Thái Bình Dương của IMF, chính sách của Việt Nam nhằm rất nhiều mục tiêu, như tăng trưởng, tạo công ăn việc làm, ổn định giá cả, phát triển kinh tế - xã hội... Ông Takeda cho rằng, mục tiêu chính sách như vậy là chung chung, do đó “cần đặt mục tiêu cụ thể hơn và chỉ là các mục tiêu tài chính/tiền tệ, thậm chí cụ thể hơn nữa để tránh xung đột tiềm ẩn giữa chúng”. Còn theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện quá rộng, đặc biệt, chúng xung đột nhau và không có trật tự ưu tiên rõ rệt. Đây không phải là vấn đề mới. Sự xung đột được đề cập nhiều trong hai năm qua khi chỉ số giá tiêu dùng tăng cao - đó là xung đột giữa thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát. Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là hai mục tiêu mâu thuẫn nhau và NHTW nên có sự lựa chọn một mục tiêu cụ thể hoặc tối thiểu là ưu tiên mục tiêu nào hơn trong ngắn hạn, hoặc trong mỗi thời kỳ, chẳng hạn như ở thời điểm này, sẽ rất khó thúc đẩy tăng trưởng cao trong điều kiện lạm phát phải thấp. Theo ông Lars Nyberg, Phó Thống đốc Ngân hàng Riskbank (Thụy Điển), NHTW mỗi nước đều đặt nhiều mục tiêu khác nhau, chẳng hạn như Mỹ quy định Cục Dự trữ liên bang có mục tiêu “tạo công ăn việc làm tối đa”. Vấn đề việc làm cũng được đề cập trong hoạt động của NHTW Anh. Nhưng qua phân tích cũng như kinh nghiệm của mình, ông Lars Nyberg cho rằng, nhiệm vụ cơ bản của NHTW là nhằm duy trì ổn định giá cả, tăng sự ổn định trong hệ thống tài chính, tức là cố gắng ổn định nền kinh tế. Các NHTW mỗi nước có khác nhau, nhưng hầu hết đều nhấn mạnh những yếu tố này. Yếu tố thúc đẩy tăng trưởng không được ông Lars Nyberg nhấn mạnh trong mục tiêu của NHTW, bởi theo ông, chính sách tiền tệ không thể tác động trực tiếp đến tăng trưởng trong dài hạn. Mức tăng trưởng dài hạn của một quốc gia được xác định bởi diễn biến về số lượng nhân công, nguồn vốn và tốc độ phát triển công nghệ. “Ảnh hưởng lớn nhất của chính sách tiền tệ là góp phần gián tiếp vào những diễn biến thuận lợi của nền kinh tế bằng cách đảm bảo rằng, lạm phát được duy trì ở mức thấp, ổn định và đạt được sự ổn định tài chính”, ông Lars Nyberg nói. Xác định nhiệm vụ của NHTW theo hướng kiểm soát lạm phát đã được đề cập thông qua một nghiên cứu có giá trị tham khảo tốt của một chuyên viên thuộc Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) công bố năm ngoái. Kết quả nghiên cứu hơn 10 năm cho thấy kết quả tương tự như nhận định của ông Lars Nyberg về quan hệ giữa chính sách tiền tệ và tăng trưởng. Còn theo ông Vũ Thế Vậc, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Ngân hàng Nhà nước), mục tiêu chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là NHTW, là ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước vẫn cần thiết phải thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, như tăng trưởng kinh tế. “Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước luôn theo đuổi mục tiêu chính khi mục tiêu của mình có xung đột với mục tiêu kinh tế vĩ mô khác”, ông Vậc nói. Với những nhận định như vậy, nếu áp dụng vào thời điểm 2 năm vừa qua khi lạm phát cao thì có thể nói, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải hướng vào mục tiêu giảm lạm phát, chứ không phải là thúc đẩy tăng trưởng, tức là khác với việc cố cân bằng hai mục tiêu theo công thức “lạm phát < tăng trưởng thực” như Ngân hàng Nhà nước đang làm hiện nay. Độc lập là ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Ngân hàng trung ương Mô hình ngân hàng trung ương Chức năng của ngân hàng trung ương Cơ chế tài chính Chính sách tiền tệ Tài chính ngân hàngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 385 1 0 -
203 trang 348 13 0
-
174 trang 338 0 0
-
102 trang 309 0 0
-
Hoàn thiện quy định của pháp luật về thành viên quỹ tín dụng nhân dân tại Việt Nam
12 trang 303 0 0 -
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 1: Phần 1 - ĐH Thương mại
194 trang 278 0 0 -
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 272 0 0 -
38 trang 253 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 247 1 0 -
Một số vấn đề về lời nguyền tiền mặt: Phần 2
118 trang 230 0 0