Mối quan hệ giữa cấu trúc thu nhập, quy mô hoạt động và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 710.17 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này kiểm tra tác động của cấu trúc thu nhập phi lãi/thu nhập lãi đến khả năng sinh lời của 32 ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam giai đoạn 2008-2018. Bằng phương pháp ước lượng theo mô hình System Generalized Methods of Moments Model (SGMM), kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của tỷ trọng thu nhập phi lãi/thu nhập lãi có mối tương quan nghịch chiều với khả năng sinh lời của các ngân hàng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mối quan hệ giữa cấu trúc thu nhập, quy mô hoạt động và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 MỐI QUAN HỆ GIỮA CẤU TRÚC THU NHẬP, QUY MÔ HOẠT ĐỘNG VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Nguyễn Trần Thuần, Mai Thị Thanh Chung, Hà Xuân Thùy Khoa Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Nghiên cứu này kiểm tra tác động của cấu trúc thu nhập phi lãi/thu nhập lãi đến khả năng sinh lời của 32 ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam giai đoạn 2008-2018. Bằng phương pháp ước lượng theo mô hình System Generalized Methods of Moments Model (SGMM), kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của tỷ trọng thu nhập phi lãi/thu nhập lãi có mối tương quan nghịch chiều với khả năng sinh lời của các ngân hàng. Nhóm tác giả cũng ghi nhận tác động này có thể khác biệt theo quy mô hoạt động của ngân hàng. Cụ thể, đối với các ngân hàng có quy mô càng nhỏ, tác động diễn ra mạnh hơn so với các ngân hàng có quy mô lớn hơn. Từ khóa: cấu trúc thu nhập, quy mô, khả năng sinh lời, ngân hàng thương mại. 1. Giới thiệu Xu hướng cạnh tranh cao trong lĩnh vực kinh doanh truyền thống là huy động vốn và cấp tín dụng khiến biên thu nhập lãi thuần của các NHTM ngày càng thu hẹp. Áp lực này đên từ những chuyển động có tính cạnh tranh từ bên ngoài. Chẳng hạn như, sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán (đặc biệt là giai đoạn những năm 2006-2007) đã tạo ra một kênh dẫn vốn trực tiếp giữa các chủ thể trong nền kinh tế, bên cạnh kênh dẫn vốn qua các định chế tài chính trung gian truyền thống như hệ thống ngân hàng. Sự gia nhập và mở rộng mạnh mẽ của các công ty tài chính tiêu dùng và những mô hình tổ chức cấp tín dụng mới (như cho vay trực tuyến, cho vay đồng đẳng,…). Bên cạnh đó, bản thân các NHTM chịu áp lực lớn do những vấn đề nảy sinh từ chất lượng các khoản dư nợ tín dụng trong danh mục tài sản sinh lời của mình. Để tồn tại và phát triển, các NHTM đứng trước hai lựa chọn. Hoặc là tiếp tục theo đổi mô hình ngân hàng chuyên biệt với nguồn thu nhập lãi từ hoạt động kinh doanh truyền thống. Hoặc là chuyển dịch dần sang mô hình ngân hàng đa năng (universal bank) với sự đa dạng hóa về nguồn thu nhập. Tuy nhiên, trước những áp lực ngày càng lớn khiến biên thu nhập lãi từ hoạt động truyền thống ngày càng thu hẹp thì đa dạng hóa nguồn thu nhập để mở rộng sang các nguồn thu nhập phi lãi dường như là lựa chọn tất yếu đối với nhiều NHTM. Về hành lang pháp lý, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 tiếp tục khẳng định sự đa dạng về các hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam (xem chi tiết tại mục 2, Luật các TCTD, 2010). Năm 2012, Chính phủ đã công bố Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-20151, trong đó “Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTM theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng”. Rõ ràng, Việt Nam đã thiết lập hành lang pháp lý cho các NHTM chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình ngân hàng đa năng (universal bank), trong đó thể hiện sự đa dạng hóa về lĩnh vực hoạt động và nguồn thu nhập. Đối chiếu với bối cảnh khu vực và thế giới, những chuyển biến này của ngành ngân hàng Việt Nam cũng phù hợp với xu hướng đa dạng hóa hoạt động của các NHTM trên thế giới vốn bắt đầu sớm từ những thập kỷ gần đây cũng do nguyên nhân từ áp lực cạnh tranh và lợi nhuận hấp dẫn của các hoạt động ngoài ngành (phi truyền thống) (DeYoung & Roland, 2001; Vinh & Mai, 2015). 1 Đề án được phê duyệt theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của Thủ tướng Chính phủ. 415 Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Tuy nhiên, thực tiễn ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2018 ghi nhận cấu trúc thu nhập phi lãi/thu nhập lãi trung bình của các NHTM chỉ xấp xỉ 29%2. Dường như các NHTM vẫn lệ thuộc rất lớn vào thu nhập lãi từ các hoạt động truyền thống, chi phối bởi hoạt động tín dụng. Do đó, về phương diện thu nhập, tiềm năng đa dạng hóa kinh doanh theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập phi lãi của các NHTM vẫn còn khá lớn. Vấn đề đặt ra là liệu tăng tỷ trọng thu nhập phi lãi trong cấu trúc thu nhập có thực sự góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động hiện tại của các NHTM Việt Nam hay không? Và liệu tác động này có bị ảnh hưởng bởi quy mô hoạt động khác nhau của ngân hàng? Đã có nhiều nghiên cứu xem xét tác động của việc mở rộng sang các thu nhập phi lãi đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng (Ahamed, 2017; DeYoung & Roland, 2001; Elsas, Hackethal, & Holzhäuser, 2010; Kamani, 2019; Meslier, Tacneng, & Tarazi, 2014; Stiroh, 2004; Stiroh & Rumble, 2006). Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu tập trung giải quyết vấn đề này (Vinh & Mai, 2015). Tuy nhiên, vẫn chưa đạt được sự nhất quán trong kết quả. Do đó, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm bổ sung thêm một bằng chứng thực nghiệm mới về mối quan hệ tác động của sự thay đổi cấu trúc thu nhập đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam cũng xem xét mối liên hệ của quy mô ngân hàng đến tác động này. 2. Cơ sở lý thuyết Dưới góc độ lý thuyết kinh tế về danh mục, nếu nguồn thu nhập tạo ra từ các hoạt động kinh doanh khác nhau không có mối tương quan hoặc tương quan với nhau thấp, chiến lược đa dạng hóa nguồn thu nhập có thể gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng (lợi nhuận điều chỉnh rủi ro). Ngân hàng có thể hưởng lợi từ đa dạng hóa thu nhập nhờ khai thác lợi thế kinh tế về quy mô và phạm vi (Baele, De Jonghe, & Vande ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mối quan hệ giữa cấu trúc thu nhập, quy mô hoạt động và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 MỐI QUAN HỆ GIỮA CẤU TRÚC THU NHẬP, QUY MÔ HOẠT ĐỘNG VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Nguyễn Trần Thuần, Mai Thị Thanh Chung, Hà Xuân Thùy Khoa Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Nghiên cứu này kiểm tra tác động của cấu trúc thu nhập phi lãi/thu nhập lãi đến khả năng sinh lời của 32 ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam giai đoạn 2008-2018. Bằng phương pháp ước lượng theo mô hình System Generalized Methods of Moments Model (SGMM), kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của tỷ trọng thu nhập phi lãi/thu nhập lãi có mối tương quan nghịch chiều với khả năng sinh lời của các ngân hàng. Nhóm tác giả cũng ghi nhận tác động này có thể khác biệt theo quy mô hoạt động của ngân hàng. Cụ thể, đối với các ngân hàng có quy mô càng nhỏ, tác động diễn ra mạnh hơn so với các ngân hàng có quy mô lớn hơn. Từ khóa: cấu trúc thu nhập, quy mô, khả năng sinh lời, ngân hàng thương mại. 1. Giới thiệu Xu hướng cạnh tranh cao trong lĩnh vực kinh doanh truyền thống là huy động vốn và cấp tín dụng khiến biên thu nhập lãi thuần của các NHTM ngày càng thu hẹp. Áp lực này đên từ những chuyển động có tính cạnh tranh từ bên ngoài. Chẳng hạn như, sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán (đặc biệt là giai đoạn những năm 2006-2007) đã tạo ra một kênh dẫn vốn trực tiếp giữa các chủ thể trong nền kinh tế, bên cạnh kênh dẫn vốn qua các định chế tài chính trung gian truyền thống như hệ thống ngân hàng. Sự gia nhập và mở rộng mạnh mẽ của các công ty tài chính tiêu dùng và những mô hình tổ chức cấp tín dụng mới (như cho vay trực tuyến, cho vay đồng đẳng,…). Bên cạnh đó, bản thân các NHTM chịu áp lực lớn do những vấn đề nảy sinh từ chất lượng các khoản dư nợ tín dụng trong danh mục tài sản sinh lời của mình. Để tồn tại và phát triển, các NHTM đứng trước hai lựa chọn. Hoặc là tiếp tục theo đổi mô hình ngân hàng chuyên biệt với nguồn thu nhập lãi từ hoạt động kinh doanh truyền thống. Hoặc là chuyển dịch dần sang mô hình ngân hàng đa năng (universal bank) với sự đa dạng hóa về nguồn thu nhập. Tuy nhiên, trước những áp lực ngày càng lớn khiến biên thu nhập lãi từ hoạt động truyền thống ngày càng thu hẹp thì đa dạng hóa nguồn thu nhập để mở rộng sang các nguồn thu nhập phi lãi dường như là lựa chọn tất yếu đối với nhiều NHTM. Về hành lang pháp lý, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 tiếp tục khẳng định sự đa dạng về các hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam (xem chi tiết tại mục 2, Luật các TCTD, 2010). Năm 2012, Chính phủ đã công bố Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-20151, trong đó “Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTM theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng”. Rõ ràng, Việt Nam đã thiết lập hành lang pháp lý cho các NHTM chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình ngân hàng đa năng (universal bank), trong đó thể hiện sự đa dạng hóa về lĩnh vực hoạt động và nguồn thu nhập. Đối chiếu với bối cảnh khu vực và thế giới, những chuyển biến này của ngành ngân hàng Việt Nam cũng phù hợp với xu hướng đa dạng hóa hoạt động của các NHTM trên thế giới vốn bắt đầu sớm từ những thập kỷ gần đây cũng do nguyên nhân từ áp lực cạnh tranh và lợi nhuận hấp dẫn của các hoạt động ngoài ngành (phi truyền thống) (DeYoung & Roland, 2001; Vinh & Mai, 2015). 1 Đề án được phê duyệt theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của Thủ tướng Chính phủ. 415 Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Tuy nhiên, thực tiễn ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2018 ghi nhận cấu trúc thu nhập phi lãi/thu nhập lãi trung bình của các NHTM chỉ xấp xỉ 29%2. Dường như các NHTM vẫn lệ thuộc rất lớn vào thu nhập lãi từ các hoạt động truyền thống, chi phối bởi hoạt động tín dụng. Do đó, về phương diện thu nhập, tiềm năng đa dạng hóa kinh doanh theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập phi lãi của các NHTM vẫn còn khá lớn. Vấn đề đặt ra là liệu tăng tỷ trọng thu nhập phi lãi trong cấu trúc thu nhập có thực sự góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động hiện tại của các NHTM Việt Nam hay không? Và liệu tác động này có bị ảnh hưởng bởi quy mô hoạt động khác nhau của ngân hàng? Đã có nhiều nghiên cứu xem xét tác động của việc mở rộng sang các thu nhập phi lãi đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng (Ahamed, 2017; DeYoung & Roland, 2001; Elsas, Hackethal, & Holzhäuser, 2010; Kamani, 2019; Meslier, Tacneng, & Tarazi, 2014; Stiroh, 2004; Stiroh & Rumble, 2006). Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu tập trung giải quyết vấn đề này (Vinh & Mai, 2015). Tuy nhiên, vẫn chưa đạt được sự nhất quán trong kết quả. Do đó, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm bổ sung thêm một bằng chứng thực nghiệm mới về mối quan hệ tác động của sự thay đổi cấu trúc thu nhập đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam cũng xem xét mối liên hệ của quy mô ngân hàng đến tác động này. 2. Cơ sở lý thuyết Dưới góc độ lý thuyết kinh tế về danh mục, nếu nguồn thu nhập tạo ra từ các hoạt động kinh doanh khác nhau không có mối tương quan hoặc tương quan với nhau thấp, chiến lược đa dạng hóa nguồn thu nhập có thể gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng (lợi nhuận điều chỉnh rủi ro). Ngân hàng có thể hưởng lợi từ đa dạng hóa thu nhập nhờ khai thác lợi thế kinh tế về quy mô và phạm vi (Baele, De Jonghe, & Vande ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tài chính ngân hàng Ngân hàng thương mại Mô hình SGMM Hoạt động dịch vụ phi tín dụng Quản lý rủi ro tín dụngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 384 1 0 -
174 trang 326 0 0
-
102 trang 305 0 0
-
Hoàn thiện quy định của pháp luật về thành viên quỹ tín dụng nhân dân tại Việt Nam
12 trang 298 0 0 -
7 trang 241 3 0
-
27 trang 186 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Rủi ro rửa tiền trong hoạt động thanh toán quốc tế ở Việt Nam
86 trang 184 0 0 -
19 trang 184 0 0
-
Các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng Mobile banking: Một nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
20 trang 178 0 0 -
Bài giảng học Lý thuyết tài chính- tiền tệ
54 trang 174 0 0