Danh mục

Một số phương thức vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng trong dạy học toán nhằm bồi dưỡng năng lực biến đổi thông tin cho học sinh

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 129.28 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này, tác giả đề cập tới các phương thức vận dụng một số quan điểm của DVBC như mâu thuẫn là động lực của sự phát triển, quan điểm về mối liên hệ giữa cặp phạm trù cái chung, cái riêng, cặp phạm trù nội dung, hình thức trong quá trình dạy học môn toán ở trường Trung học Cơ sở nhằm bồi dưỡng năng lực biến đổi thông tin cho học sinh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số phương thức vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng trong dạy học toán nhằm bồi dưỡng năng lực biến đổi thông tin cho học sinh JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Science - Mathematics, 2013, Vol. 58, pp. 119-125 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC VẬN DỤNG CÁC QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG DẠY HỌC TOÁN NHẰM BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC BIẾN ĐỔI THÔNG TIN CHO HỌC SINH Lê Thị Hương Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị Email: huong_lt@qtttc.edu.vn Tóm tắt. Triết học duy vật biện chứng có mối liên hệ biện chứng với toán học và quá trình dạy học toán. Nắm vững các nội dung, hiểu rõ các quan điểm của duy vật biện chứng (DVBC) giúp chúng ta có phương pháp nghiên cứu, giảng dạy cũng như học tập toán đúng đắn và hiệu quả. Bài viết này, chúng tôi đề cập tới các phương thức vận dụng một số quan điểm của DVBC như mâu thuẫn là động lực của sự phát triển, quan điểm về mối liên hệ giữa cặp phạm trù cái chung, cái riêng, cặp phạm trù nội dung, hình thức trong quá trình dạy học môn toán ở trường Trung học Cơ sở nhằm bồi dưỡng năng lực biến đổi thông tin cho học sinh. Từ khóa: Duy vật biện chứng, năng lực biến đổi thông tin.1. Đặt vấn đề Triết học DVBC được xem là cơ sở phương pháp luận của mọi ngành khoa học.Triết học cùng các quy luật và phạm trù của nó có mối liên hệ biện chứng với toán học vàquá trình dạy học toán. Nắm vững các nội dung, hiểu rõ các quan điểm của DVBC giúp chúng ta có phươngpháp nghiên cứu, giảng dạy cũng như học tập toán đúng đắn và hiệu quả: xem xét nhữnghiện tượng trong quá trình phát triển và trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong sựmâu thuẫn và thống nhất, trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, phát hiện nhữngsự biến đổi số lượng dẫn tới sự biến đổi chất lượng... Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới việc vận dụng một sốquan điểm của DVBC như mâu thuẫn là động lực của sự phát triển, quan điểm về mốiliên hệ giữa cặp phạm trù “cái chung và cái riêng”, cặp phạm trù “nội dung và hình thức”trong quá trình dạy học môn Toán ở trường Trung học Cơ sở nhằm bồi dưỡng năng lựcbiến đổi thông tin (BĐTT) cho học sinh (HS). 119 Lê Thị Hương2. Nội dung nghiên cứu2.1. Quan điểm biện chứng: Mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình phát triển2.1.1. Cơ sở khoa học Theo triết học DVBC, mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình phát triển. GS.TSNguyễn Cảnh Toàn [5; 11] cho rằng mâu thuẫn là động lực phát triển toán học. Trong dạyhọc toán, mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn cólà động lực thúc đẩy HS hoạt động học tập, thúc đẩy quá trình phát triển của họ. Trong dạy học toán, tri thức mới thường được cài đặt trong các tình huống sư phạmcó chứa các khó khăn, chướng ngại hay các mâu thuẫn. Vượt qua khó khăn, khắc phục cácchướng ngại hoặc giải quyết các mâu thuẫn là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt độnghọc tập của HS để tiếp nhận tri thức mới.2.1.2. Một số phương thức thực hiện trong dạy học toán a. Xây dựng những tình huống dạy học có chứa các mâu thuẫn để tạo ra động cơ,nhu cầu nhận thức của HS. Từ những mâu thuẫn trong các tình huống dạy học toán sẽ nảy sinh các nhiệm vụnhận thức của HS. Khi một vấn đề được đặt ra cho HS học tập chính là một mâu thuẫn giữa yêu cầunhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn có. Tình huống này phản ánh mộtcách logic và biện chứng quan hệ bên trong giữa tri thức cũ, kĩ năng cũ và kinh nghiệmcũ đối với yêu cầu nhận thức, giải thích sự kiện mới hay đổi mới tình thế [1; 184]. Khi đó,mâu thuẫn đã trở thành động lực của hoạt động nhận thức của HS. Ví dụ 1: Khi dạy học khái niệm số nguyên trong chương trình toán lớp 6, giáo viên(GV) có thể đưa ra tình huống dạy học có chứa mâu thuẫn như yêu cầu HS thực hiện 2 + 5;2 × 5; 2 − 5. Khi đó phép tính 2 − 5 mâu thuẫn với kiến thức sẵn có của HS và GV phảitạo cho HS nhu cầu nhận thức một loại số mới như thế nào để phép trừ các số tự nhiênluôn thực hiện được. Đây chính là nhu cầu xuất phát từ nội bộ toán học đối với việc cầnnảy sinh khái niệm số nguyên âm. Ví dụ 2: Khi học xong phương pháp giải phương trình quy về bậc 2 dạng có chứacăn thức ở chương trình toán lớp 9, GV đưa ra tình huống vận dụng giải các phương trìnhsau: √ 1. 2x2 + x = 2x + 1 √ 2. 2x2 + x = 4x2 + 2x − 3 Việc giải phương trình 1 thì HS thực hiện thuận lợi theo phương pháp giải đã được120 Một số phương thức vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng...giới thiệu ở sách giáo khoa nhưng sẽ nảy sinh mâu thuẫn mới khi HS giải ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: