Danh mục

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG 4

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 125.97 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG 4Mẫu người Phật tử Việt Nam thời Trần, như thế, là một mẫu người Bồ Tát trang nghiêm, là một mẫu người trượng phu trung hiếu. Bồ Tát dĩ nhiên là một phạm trù tư tưởng lớn của Phật giáo, còn trượng phu là một phạm trù của tư tưởng Nho giáo. Nhưng cứ đọc các tác phẩm Nho giáo nói về trượng phu, ta mới thấy những đóng góp mới của Trần Nhân Tông. Trong thiên Đằng Văn Công hạ của Mạnh tử ta được bảo rất rõ thế nào...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG 4 MỘT SỐ VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG 4Mẫu người Phật tử Việt Nam thời Trần, như thế, là một mẫu người Bồ Tát trangnghiêm, là một mẫu người trượng phu trung hiếu. Bồ Tát dĩ nhiên là một phạm trùtư tưởng lớn của Phật giáo, còn trượng phu là một phạm trù của tư tưởng Nhogiáo. Nhưng cứ đọc các tác phẩm Nho giáo nói về trượng phu, ta mới thấy nhữngđóng góp mới của Trần Nhân Tông. Trong thi ên Đằng Văn Công hạ của Mạnh tửta được bảo rất rõ thế nào là một trượng phu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bấtnăng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại tr ượng phu” (giàu sang không thể mêhoặc, nghèo hèn không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục, đó gọi là đạitrượng phu).Trượng phu trong tư tưởng Nho giáo là thế, nhưng so với định nghĩa của TrầnNhân Tông ta thấy nội dung đó hạn hẹp và tủn mủn, bởi vì “ngay thờ chúa, thảothờ cha”, một con người như thế tất không thể nào bị tác động bởi giàu sang nghèohèn hay uy vũ. Nội hàm của phạm trù trượng phu trong tư tưởng Trần Nhân Tôngdo vậy tỏ ra rộng lớn và phong phú hơn nhiều. Đây là một thí dụ điển hình kháccủa việc tổ tiên ta có thể sử dụng một số từ ngữ Trung Quốc, mà khi đọc lên,thường gây ấn tượng mang sắc thái Nho giáo. Nhưng khi đi sâu vào phân tích, tathấy những từ ngữ này mang một nội dung khác hẳn. Trước đây, chúng tôi đã thửphân tích tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà người ta thường cho là củaNho giáo, và đã đạt đến những kết luận hoàn toàn khác hẳn.Từ đó mẫu người lý tưởng của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên được quy định mộtnội dung hết sức cụ thể. Họ không chỉ “sạch giới lòng, dồi giới tường”để trở nên“Bồ Tát trang nghiêm”, mà còn “ngay thờ chúa, thảo thờ cha”để thành những“trượng phu trung hiếu”. Đây có thể nói là một đúc kết về hình tượng người ViệtNam lý tưởng, chứ không phải chỉ của Phật giáo. Thực tế những người làm nên sựnghiệp oanh liệt của dân tộc ta vào thời Trần Nhân Tông có thể nói hầu hết đều làPhật tử, từ những vị lãnh đạo tối cao ở trung ương như Trần Hưng Đạo, TrầnQuang Khải cho đến những người dân ở xã ấp như Lê Công Mạnh và anh em concháu. Vì họ là những Bố Tát trang nghiêm nên đối với bản thân họ giữ gìn kỷ luậtvà sống cuộc sống có lý tưởng. Nhưng đồng thời họ cũng là những trượng phutrung hiếu, nên họ trung thành với tổ quốc ,ợ sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà:Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha,thờ thầy học đạo.Mến đức Cồ, kiêng bùi ngọt,cầm giới ăn chay.(Hội thứ bảy)để có thể đóng góp cho xã hội qua những công tác cụ thể như bắc cầu, đóng đò vớimột tấm lòng hỷ xả, từ bi:Dựng cầu đò, dồi chiền tháp,Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.Săn hỷ xả, nhuyễn từ biNội tự tại kinh Lòng hằng đọc(Hội thứ tám)Sau hai cuộc chiến tranh do quân thù áp đặt vào những năm 1285 và 1288, baonhiêu cơ sở hạ tầng của đất nước ta, đặc biệt là hệ thống cầu cống và bến đò, doyêu cầu tác chiến về phía ta cũng như sự tàn phá không tiếc thương của kẻ thù, đãbị hủy hoại gần hết. Thế mà trong lần đi sứ vào năm Chí Nguyên Nhâm Thìn(1292), tên phó sứ Trần Phu đã thấy ở kinh đô Thăng Long của Đại Việt nhữngchiếc cầu bắc qua sông hùng vĩ. Y viết: “Từ sứ quán đi 60 dặm thì qua tới cầu AnHóa, lại đi một dặm thì đến phía bắc cầu Thanh Hóa. Trên cầu này là một ngôi nhà19 gian” như ta đã thấy ở trên. Cả nước Đại Việt là một công trường xây dựng lớnsau chiến tranh. Người dân Đại Việt hăng say lao động để kiến tạo lại đất nướcmình sau những năm chiến tranh gian khổ và mất mát.Chính hình ảnh và khí thế của những con người lao động như thế đã đập vào mắtngười lãnh đạo đất nước, để lại trong tâm khảm những ấn t ượng khó phai mờ. Chonên khi viết Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông đã không quên đưa việcdựng cầu đò, xây chiền tháp để làm cho đất nước đẹp đẽ, trở thành một nhiệm vụ,một nghĩa vụ mà người Phật tử Việt Nam có bổn phận phải hoàn thành đối với tổquốc. Và tổ quốc Việt Nam sau những năm tháng chiến tranh ấy đã trở thành mộtcõi đất Phật, mà trạng nguyên Huyền Quang Lý Tải Đạo đã diễn tả trong bài phúVịnh chùa Vân Yên:Phen những ôi!Tây Trúc dường nàoNamchâu có mấyNon Linh Thứu ai đem về đâyCảnh Phi Lai mặt đà thấy đáy,Vào chưng cõi Thánh thênh thênhThoát rẽ lòng phàm phây phấyĐất nước Việt Nam vào thời ấy được nhìn như thế. Cho nên, người dân đã sẵnsàng hy sinh chiến đấu để bảo vệ, và cũng sẵn sàng hăng say xây dựng để kiến tạomột cõi Phật cho chính mình và con cháu. Người Phật tử Việt Nam vào thời ấy tuycó nhận định việc xây dựng chùa chiền là “khơi vét máu mỡ của dân”, nhưngkhông phải cực đoan đi đến chỗ phủ nhận việc xây dựng chùa chiền, hay chống lạimột sự nghiệp như thế. Có lẽ trong tâm thức tầng lớp lãnh đạo Phật tử Việt Namthời đó vẫn thấy chùa chiền là nơi để củng cố nền vững bền của đất nước.Phạm Sư Mạnh, người học trò xuất sắc của Chu Văn An (1292 -1371), đã viết vềchùa Báo Thiên với những câuTrấn áp đông tây củng đế kỳKhuy nhiên nhất tháp độc ng ...

Tài liệu được xem nhiều: