Danh mục

Một trường hợp Viêm gan Siêu vi B và Ung thư Tế bào Gan

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 112.10 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bà NTX 64 tuổi được biết nhiễm siêu vi viêm gan B năm 1995 khi sang định cư tại Hoa kỳ, được theo dõi mỗi 6 tháng. Năm 2003 alanin aminotransferase (ALT) thường xuyên ở mức 50-60, HBsAg + HBsAb-, HBeAg+, HBeAb- số siêu vi trên 32.000 đơn vị quốc tế (IU)/ml, siêu âm phù hợp với xơ gan, đựợc điều trị bằng lamivudine 100mg/ngày. Sự điều trị bị gián đoạn 2 tháng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một trường hợp Viêm gan Siêu vi B và Ung thư Tế bào Gan Một trường hợp Viêm gan Siêu vi B và Ung thư Tế bào Gan Bà NTX 64 tuổi được biết nhiễm siêu vi viêm gan B năm 1995 khisang định cư tại Hoa kỳ, được theo dõi mỗi 6 tháng. Năm 2003 alanin aminotransferase (ALT) thường xuyên ở mức 50-60,HBsAg + HBsAb-, HBeAg+, HBeAb- số siêu vi trên 32.000 đơn vị quốc tế(IU)/ml, siêu âm phù hợp với xơ gan, đựợc điều trị bằng lamivudine100mg/ngày. Sự điều trị bị gián đoạn 2 tháng. Tháng 6-2005 bệnh nhân mệt mỏi, không vàng da, không phù, khôngcó tuần hoàn bàng hệ và báng bụng, gan không sờ thấy, lách 3cm dưới bờsườn, Bạch cầu 3.200/ml, Hồng cầu 4.36 triệu/ml, Tiểu cầu 48.000/ml ALT256 U/l, bilirubin 1.6mg/dl, HBV DNA 18.000 IU/ml, alfa fetoprotein(AFP) 8.1ng/l, CT thấy xơ chai gan, không có sang thương khu trú, nội soithấy giãn tĩnh mạch thực quản độ l được điều trị adefovir 10mg/ngày cùngvới nadolol 40mg/ngày. Sau một năm lượng siêu vi vẫn còn 9.000 IU/ml nên thêm entecavir0.5mg/ngày. Ba tháng sau số siêu vi không còn đo được nhưng ALT vẫn cao, MRIphát hiện sang thương 2.5 cm x 1.8 cm ở thùy trái, không xâm lấn vào mạchmáu, không có hạch trong ổ bụng. Bệnh nhân được lên danh sách chờ ghépgan. Bàn luận. - Viêm gan siêu vi B mãn ở các vùng nội dịch như Việt nam thườngdo nhiễm từ mẹ sang con trong khi sinh. Nhiễ m siêu vi tiến triển từ giai đoạndung nạp miễn dịch đến giai đoạn phản ứng miễn dịch và viêm gan mãn.Trong giai đọan dung nạp miễn dịch, cơ thể không làm ra kháng thể nên siêuvi tiếp tục sinh sản mà không gây triệu chứng và tổn thương ở gan. Sauchừng ba mươi năm cơ thể phản ứng, tạo ra kháng thể chống lại các tế bàogan bị nhiễm gây ra phản ứng viêm làm cho một số tế bào gan bị hủy diệt dođó ALT tăng trong máu và bệnh nhân có những mức độ tổn thương ở gankhác nhau. Phản ứng miễn dịch có thể làm cho khỏi bệnh, hoặc trở thànhngười mang mầm bệnh nhưng ổn định hoặc hoặc tiếp tục bị viêm gan mãn;khi phản ứng viêm tiêu diệt một khối lượng lớn tế bào gan gây ra một đợtviêm gan cấp có thể gây tử vong. Siêu vi ở những người mang mầm bệnh dùđã ổn định vẫn có thể họat động trở lại và gây biến chứng; siêu vi cũng lànguyên nhân gây ung thư tế bào gan. Tỉ lệ phát bệnh hàng năm của ung thư gan dưới 1% ở những ngườimang siêu vi ổn định, tăng lên 2-3% ở những người bị xơ gan. Nguy cơ tùythuộc ở tuổi, phái nam, tiền căn gia đình về ung thư gan và type siêu vi cụthể là genotype C phổ biến ở Á châu. Bệnh nhân này đã được điều trị khi có phản ứng viêm và dấu hiệu xơgan với lamivudine, đã kháng lamivudine và sự điều trị bị gián đoạn. Thôngthường khi bệnh nhân kháng với lamivudine ta thêm adefovir. Vì bệnh nhânđã ngưng lamivudine nên được bắt đầu lại bằng adefovir đơn thuần. Sau mộtnăm điều trị mà siêu vi vẫn tồn tại nên đã được thêm entecavir. Bệnh nhânđã điều trị trong nhiều năm nhưng vẫn bị ung thư gan. Dù sao sự điều trịcũng chỉ được áp dụng trong một thời gian tương đối ngắn so với sự viêmnhiễm đã đã kéo dài từ nhiều chục năm. Sự theo dõi có lợi vì giúp phát hiệnung thư sớm. Ngày nay với các phương tiện định hình có độ nhậy cao, có thểkhông cần phải làm sinh thiết để chẩn đoán xơ gan và ung thư gan. Siêu âmcùng với lâm sàng và xét nghiệm có thể xác định xơ gan. Một sang thươngmới xuất hiện ở người có xơ gan hoặc nhiễm siêu vi B nếu không phải làhemangioma, đương nhiên được coi là ung thư. Ngày nay, ở các nước kinhtế phát triển, cách điều trị ung thư tốt nhất ở người xơ gan là thay gan. Nhân dịp này ta xem lại một số hướng dẫn về điều trị viêm gan siêuvi B. 1.- Những người nào cần điều trị? Những bệnh nhân xơ gan mất bù có báng, bệnh não do gan, xuấthuyết do giãn tĩnh mạch thực quản cần được điều trị bằng thuốc khángnucleosides hoặc nucleotides vì giúp cải thiện diễn tiến trong khi interferonalpha bị chống chỉ định vì suy gan. Sự điều trị cũng cải thiện sự tiến triểncủa xơ gan và giảm xuất độ ung thư gan. Những bệnh nhân nhiễm siêu viviêm gan B mà cần điều trị ức chế miễn dịch hoặc điều trị ung thư, cần đượcbắt đầu điều trị viêm gan B trước và tiếp tục trong suốt thời gian điều trị ứcchế miễn dịch hoặc điều trị ung thư. Những bệnh nhân bị viêm gan mãn táiphát có lượng siêu vi trong máu cao và phản ứng viêm cần được điều trị.Những bệnh nhân trong thời kỳ phản ứng miễn dịch trên 35 tuổi có ALT caoliên tục hoặc có phản ứng viêm và xơ chai ở gan có thể được điều trị. Quyếtđịnh cũng tùy thuộc vào các yếu tố nguy cơ gây ung thư. Nhiễm HIV, siêu viviêm gan C và D tăng nguy cơ diễn tiến xấu. Nếu cần điều trị HIV thì cũngcần điều trị viêm gan siêu vi B. Nếu không cần điều trị HIV thì cần theohướng dẫn như trên tuy nhiên cần hạ thấp tiêu chuẩn về nồng độ siêu vitrong máu. Có ý kiến cho rằng ALT bình thường không loại bỏ khả năng cóphản ứng viêm ở người đồng nhiễm HIV- ...

Tài liệu được xem nhiều: