Danh mục

Nghiên cứu phát triển cây khoai tây ở Việt Nam Khoai

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 102.90 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu phát triển cây khoai tây ở Việt Nam Khoai tây được nhập vào Việt Nam năm 1890, tới năm 2002 này là 112 năm. Từ năm 1980, khoai tây được quan tâm và đã có đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước mà Viện Khoa học và kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (KHKTNNVN) là cơ quan chủ trì.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu phát triển cây khoai tây ở Việt Nam Khoai Nghiên cứu phát triển cây khoai tây ở Việt Nam Khoai tây được nhập vào Việt Nam năm 1890,tới năm 2002 này là 112 năm. Từ năm 1980, khoaitây được quan tâm và đã có đề tài nghiên cứu cấpNhà nước mà Viện Khoa học và kỹ thuật Nôngnghiệp Việt Nam (KHKTNNVN) là cơ quan chủ trì.Nhờ vậy, năng suất khoai tây đã được nâng cao,trước thường là 8 tấn/ha, cao nhất là 18-20 tấn/ha, từnăm 1981 đến nay, năng suất bình quân đạt gần 12tấn/ha, cao nhất đạt 35-40 tấn/ha, có thời điểm khoaitây đã xuất khẩu sang Nga (có năm tới 1.000 tấn).Khi lương thực lúa gạo và ngô dồi dào thì khoai tâyđược nghiên cứu theo hướng chất lượng và hiệu quả.Những công trình nghiên cứu khoai tây trong giaiđoạn này là: Khai thác sử dụng nguồn gen khoai tây: Từ năm1996-1982, Viện đã nhập khoảng 220 giống khoaitây của Liên Xô cũ, Ba Lan, Hungary, Cộng hòaDân chủ Đức, Hà Lan... để khảo nghiệm. Kết quả đãxác định và giới thiệu một số giống ra sản xuất nhgiống Việt-Đức 1 (Kardia của Đức), Việt-Đức 2(Mariella của Đức), khoai Pháp (Ackersegen phụctráng bằng invitro), giống Diamant, Nicola (Hà Lan).Những giống tiến bộ này đã đ a vào sản xuất vớidiện tích 3.000-4.000ha/năm; chúng có năng suất,chất lượng cao, mã củ đẹp, có thể sử dụng để chếbiến và xuất khẩu. Tuy nhiên, những giống khoai tâynày thoái hóa nhanh do chúng mang gen Tuberosum(nguồn gốc ở Chi Lê), thích hợp ở vùng ôn đới, ngàycó 14 giờ chiếu sáng. Để có giống phù hợp với điềukiện sinh thái Việt Nam, Viện đã hợp tác với Trungtâm Khoai tây Quốc tế (CIP) tiến hành ch ương trìnhchọn tạo giống sử dụng nguồn gen khoai tây củaCIP, phối hợp giữa Tuberosum (ôn đới) với genAndigena (nhiệt đới); (gen Andigena có nguồn gốc ởPeru và các nước lân cận). Từ năm 1982 đến 2001,Viện đã tiếp nhận 190 tổ hợp lai, đã tạo ra hàng chụcvạn con lai để chọn lọc và đã chọn được nhữnggiống khoai tây mới: VC38,6, KT2, KT3, giốngkhoai tây hạt lai Hồng Hà 2, Hồng Hà 7, ... đ a vàosản xuất. Nghiên cứu sản xuất khoai tây bằng hạt lai:Trồng khoai tây bằng củ tuy có độ thuần cao, chấtlượng khoai cao, nhưng lượng củ giống để trồng khácao (1ha thường phải sử dụng bình quân 2 tấn củ tơi, chi phí về giống chiếm 70% tổng chi phí). Năm1992, Viện KHKTNNVN cùng với Viện Cây lươngthực và Cây thực phẩm (CLT&CTP), TTKN TháiBình và một số tỉnh đã nghiên cứu thử nghiệm trồngkhoai tây bằng hạt lai. Năm 1996, khoai tây bằng hạtlai đã được sản xuất tiếp nhận, cứ 100g hạt thay 2tấn củ để trồng 1ha, năng suất cao, có hiệu quả, songchất lượng thì ch a đồng đều. Từ năm 1995 đến2001, diện tích trồng khoai tây lai hàng năm đạt hơn3.000ha. Nghiên cứu sản xuất và bảo quản giống: Đây làcông việc rất khó khăn song cũng rất cần thiết chongười sản xuất khoai tây. Góp phần giải quyết côngviệc này, Viện đã tiến hành nghiên cứu một số côngđoạn để có cơ sở xây dựng hệ thống giống: Bảoquản khoai tây giống bằng kho lạnh: Nếu bảo quảnkhoai trong nhà dân, thời gian tới 9 tháng, mùa hènóng 25-35oC, độ ẩm trên 90% thì tỷ lệ hao hụt tới40%, mầm mọc sớm nên giống già sinh lý làm giảmnăng suất. Mặt khác, do bảo quản quá lâu, côn trùngvà nấm bệnh có điều kiện tấn công gây hại củ giống,phải phun thuốc hóa chất để phòng trừ, làm ô nhiễmnhà ở. Để khắc phục tình hình trên, Viện được sựgiúp đỡ của Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Hà Lan-ViệtNam (KWT) tiến hành bảo quản khoai tây giốngbằng kho lạnh ở nhiệt độ 4oC, độ ẩm 85% (là thôngsố kỹ thuật tối u bảo quản khoai tây giống), tỷ lệ haohụt d ới 5%. Khi trồng, năng suất trồng giống kholạnh cao hơn giống kho tán xạ (để trong nhà dân) tới50%, sản xuất có hiệu quả. Từ năm 1996 đến năm2001, phát triển được 58 kho, bảo quản được gần1.800 tấn giống. Nhân giống bằng invitro: Trong các giải phápnhân giống khoai tây vô tính thì công nghệ nhângiống bằng invitro có nhiều u thế. Từ năm 1978, quanghiên cứu thử nghiệm của nhiều nhà khoa học, củanhiều cơ quan ở nhiều vùng sinh thái, đến năm 1984đã thành công ở vùng Đà Lạt. Từ năm 1984 đến nay,nông dân Đà Lạt trồng khoai tây bằng giống sảnxuất từ invitro, năng suất bình quân 35-40 tấn/ha,cao tới 60 tấn/ha, bền vững, song diện tích trồngkhoai tây ở đây còn ít, khoảng 300-500ha. Côngnghệ này còn đang được ứng dụng để sản xuất vậtliệu bố mẹ để sản xuất hạt khoai tây lai và bảo quảnnhững nguồn gen quý của khoai tây. Đây là côngtrình do Trung tâm Công nghệ Sinh học miền Namchủ trì, Viện KHKTNNVN là cơ quan phối hợp. Sản xuất giống khoai tây vụ xuân: Từ năm 1985,Viện đã nghiên cứu thử nghiệm trồng khoai tây vụxuân ở Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) để thu hoạchvào tháng 4 nhằm rút ngắn thời gian bảo quản trongkho tán xạ từ 9 tháng còn 6 tháng để củ giống trẻsinh lý, ít hao hụt. Vật liệu sử dụng là giống của vụđông đem phá ngủ bằng GA3 và giống nhập từ HàLan. Kết quả là, giống khoai tây sản xuất vụ Xuâncó tỷ lệ hao hụt cao hơn bảo quản bằng kho lạnhnhưng ít hơn khoai vụ đông, mầm trẻ, khi trồng cónăng suất ...

Tài liệu được xem nhiều: