Thông tin tài liệu:
Tên gọi của các động vật thân mềm trong lớp Hai mảnh vỏ (Bivalves) có nhiều khác biệt giữa người Việt sống tại Hải ngoại và trong nước : Oyster là một ví dụ thiết thực nhất : Tại Hải ngoại, Oyster được gọi là Sò và có nhiều nơi là Sò huyết, nhưng khi đối chiếu với tên khoa học thì trong nước gọi Oyster là Hàu (Hà hay Hào) và Sò huyết là tên trong nước dùng để gọi loài Blood clam (Anadara granosa). Oyster là một trong những sinh vật cổ nhất trên thế giới, có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
OYSTER (Hàu) : Thức ăn và Vị thuốc OYSTER (Hàu) : Thức ăn và Vị thuốc Tên gọi của các động vật thân mềm trong lớp Hai mảnh vỏ (Bivalves)có nhiều khác biệt giữa người Việt sống tại Hải ngoại và trong nước : Oysterlà một ví dụ thiết thực nhất : Tại Hải ngoại, Oyster được gọi là Sò và cónhiều nơi là Sò huyết, nhưng khi đối chiếu với tên khoa học thì trong nướcgọi Oyster là Hàu (Hà hay Hào) và Sò huyết là tên trong nước dùng để gọiloài Blood clam (Anadara granosa). Oyster là một trong những sinh vật cổ nhất trên thế giới, có lẽ từ 200triệu năm trước. Người tiền sử đã biết ăn oyster, và oyster là một trong sốcác món ăn hiếm hoi mà nhân loại ăn sống. Với ngưới Hy lạp cổ, Oyster làmột thực phẩm của Ái tình. Aristotle đả viết về Oyster từ năm 320 trướcTây lịch và Nữ thần Tình Ái của Huyền thoại Hy lạp, Aphrodite đã từ biểnđi lên trên một vỏ oyster và hạ sinh Thần Eros. Người La mã rất thich ănoyster, nên đã đưa về Rome mọi loài oyster thu hoạch trong phạm vi Đếquốc, theo lệnh Hoàng đế Vitellus (người mê oyster đến mức ăn cả ngày lẫnđêm) hàng ngàn nô lệ đã thu nhặt oyster trong vùng English Channel đểmang về Rome. Người La mã mê oyster đến mức đã tìm cách nuôi oyster vàđã đặt ra một đơn vị tiền tệ gọi là denarius, trị giá bằng 1 con oyster. Thời cổHylạp, oyster ngoài vai trò dùng làm thực phẩm còn đưọc dùng làm phiếubầu cử : bỏ phiếu bằng cách khắc trên vỏ oyster. Oyster đã được nổi tiếng từ thời Trung cổ tại Âu châu như một thựcphẩm trợ dương, gây kích thích tình dục, ghi chép trong sách vở từ 1390.Trong thể kỷ 18, có nhiều sách về ẩm thực đã viết về khả năng kích dục củaoyster, đặc biệt nhất là về Nhân vật Casanova (một..tay chơi) đạ ăn mỗingày..60 con oyster! và gọi oyster là một phương thuốc làm tăng tinh thần vàtăng khả năng yêu đương! Một số tác giả nổi tiếng như WilliamShakespeare, Lewis Carroll, Jonathan Swift và Ernest Hemingway cững đãviết nhiều về oyster. Tại Bắc Mỹ, hàng đống vỏ oyster tìm được dọc ven biển đã cho thấythổ dân Bắc Mỹ củng đã biết ăn oyster từ thời xa xưa. Tại ven biển miềnĐông, các ngươì di dân đầu tiên đến đất Mỹ đã tiêu thụ oyster vượt hẳn thổdân ăn con số oyster tính theo xa cạ mỗi lần đến 144 con (thay vì mổidozen, 12 con). Ngày nay, tiêu chuẩn ăn oyster tại Âu châu là dozen, và tại Hoa kỳ làhalf-dozen (6 con), mỗi lần đặt thực đơn. Tuy nhiên theo thống kê, ngườiMỹ hiện tiêu thụ mỗi năm khoảng 100 triệu pounds oyster. Có 3 nhóm Oysters chính, gồm các giống (species): Ostrea,Crassostrea và Saccostrea. Các giống Crassotrea và Saccostrea sinh sốngphần chính tại vùng liên triều (intertidal) còn Ostrea tại vùng cận triều(subtidal). Oyster hay Hàu là một nhuyến thể trong lớp Bivalva, có vỏ ngoải màunâu đỏ hay xám xậm. Vỏ oyster dầy, thô nhám và không đều. Phần vỏ trên(nắp) lớn và phẳng hơn phần vỏ dưới, vốn cong vòng hơn và chứa phần thânthể của sinh vật. Oyster có thể được phân hạng theo dạng của vỏ như vỏbằng hay vỏ úp (các loài vỏ bằng thường gặp tại Âu châu). Đa số oyster sinhsống trong vùng nước mặn hay nước lợ. Đời sống của oyster bắt đầu dưới dạng một sinh vật rất nhỏ chỉ cỡ 25mm, gọi là spat nở ra từ hàng triệu trứng thụ tinh từ cha mẹ, spat tìm bất cứmột vật thể gì để bám dính vào (trong thiên nhiên có thể là một tảng đá) vàtừ nơi đó con oyster nhỏ bé bắt đầu tăng trưởng (nếu không bị các sinh vậtkhác dùng làm thực phẩm) và sau đó sống được đến 8 năm, chỉ lọc nướcbiển để lấy các chất dinh dưỡng tự nuôi thân mình.. Oyster có thể là đực hay cái tùy giai đoạn, và cũng có con chỉ thay đổiphái tính một lần trong suốt đời sống. Không như mussel, oyster không bámvào đá bằng cách bài tiết ra những chất kết dính nhưng thường bám vào mộtcon oyster khác hay một ký chủ. Oyster sống tụ thành đám, đeo dình thànhchùm, ăn các phiêu sinh vật và các thực vật thủy sinh qua hệ thống lọc nơimang do đó rất dễ bị ô nhiễm. Oyster sinh sống tại các vùng biển nhiệt đới và ôn đới, tuy nhiên tạinhững vùng ôn đới, oyster tăng trưởng rất chậm : phải mất đến 7 năm đểphát triển được 7.5 cm (trong khi đó oyster nhiệt đới chỉ mất trên 2 năm)nhưng đổi lại là mùi vị của thịt lại ngon ngọt và chắc hơn. Thịt oyster cómàu sắc thay đổi: từ nâu nhạt đến trắng-xám và có thể xanh nhạt nếu oysterăn rong biển. Độ chắc của thịt oyster thay đổi theo mùa sinh sản (từ tháng 5đến tháng 8 tại vùng Bắc bán cầu), lúc này thịt oyster mềm nhưng lại rấtnhão. Do đó có những khuyến cáo: Chỉ nên ăn oyster trong những thángtrong tên có chữ R, nghịa là từ tháng 9=September đến tháng 4= April.Khuyến cáo này không áp dụngvới Oyster nuôi tại Hoa Kỳ vì các nhà khoahọc Mỹ đã tìm ra những phương pháp thay đổi gene để tạo ra các giốngoyster vô sinh. Có rất nhiều loài Oyster, nhưng chỉ một số tương đối ít được dùng làmthực phẩm, trong đó có thể kể: 1) Oyster Âu châu ( Eur ...