Danh mục

PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH GIÁ CHỨNG KHOÁN – Phần 7

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 195.32 KB      Lượt xem: 27      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chỉ số niềm tin (the confidence index) Chỉ số niếm tin do Barron’s xây dựng là hệ số giữa tỉ suất doanh lợi của trái phiếu 10 công ty hàng đầu do Barron’s lựa chọn so với tỉ suất doanh lợi của 40 trái phiếu thường dùng để tính chỉ số trái phiếu DowJones. Chỉ số này phản ánh sự khác biệt về chênh lệch tỉ suất doanh lợi giữa các trái phiếu hàng đầu so với các trái phiếu thường khác thuộc nhiều nhóm ngành nghề. Các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng đây là 1 chỉ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH GIÁ CHỨNG KHOÁN – Phần 7 PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH GIÁ CHỨNG KHOÁN – Phần 7 + Chỉ số niềm tin (the confidence index) Chỉ số niếm tin do Barron’s xây dựng là hệ số giữa tỉ suất doanh lợi của tráiphiếu 10 công ty hàng đầu do Barron’s lựa chọn so với tỉ suất doanh lợi của 40 tráiphiếu thường dùng để tính chỉ số trái phiếu DowJones. Chỉ số này phản ánh sựkhác biệt về chênh lệch tỉ suất doanh lợi giữa các trái phiếu hàng đầu so với cáctrái phiếu thường khác thuộc nhiều nhóm ngành nghề. Các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng đây là 1 chỉ báo của xu thế giá lên, bởikhi người đầu tư có lòng tin, họ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào các trái phiếu chấtlượng thấp hơn nhằm thu được tỉ suất doanh lợi cao hơn. Do vậy chỉ số niềm tin sẽtăng. Ngược lại, khi người đầu tư bi quan họ sẽ tránh đầu tư vào các trái phiếu chấtlượng thấp và gia tăng đầu tư vào các trái phiếu có chất lượng cao. Tuy nhiên việc đánh giá về hành vi của người đầu tư theo chỉ số này hầunhư mới phụ thuộc vào mức cầu. Trên thực tế nó còn phụ thuộc vào mức cung. Vídụ, công ty ABC phát hành 1 khối lượng lớn trái phiếu hàng đầu có thể dẫn đến lợisuất của các trái phiếu hàng đầu tạm thời tăng lên, làm giảm chênh lệch lợi suất vàkhiến chỉ số niềm tin tăng lên mà không có sự thay đổi về niềm tin của nhà đầu tư. Những người ủng hộ chỉ số này tin rằng nó phản ánh được thái độ chungcủa người đầu tư đối với các tài sản tài chính. Một số nghiên cứu khoa học chothấy chỉ số này tỏ ra không mấy hữu ích trong việc dự đoán biến động giá cổphiếu. + Số dư nợ trên tài khoản giao dịch Số dư nợ trên tài khoản giao dịch phản ánh thái độ của 1 số nhà đầu tư cókiến thức và kĩ năng chuyên sâu trong việc thực hiện các giao dịch kí quỹ. Theo đókhi số dư nợ gia tăng sẽ là dấu hiệu xu thế giá lên. Ngược lại khi số dư nợ giả mxuống sẽ là dấu hiệu bán ra vì những người đầu tư khôn ngoan này muốn kết thúc1 chu kì giao dịch, đồng thời nó cũng phản ánh sự giảm sút của luồng vốn sẵnsàng tham gia thị trường và sẽ là dấu hiệu của xu thế giá xuống. Số liệu hàng tháng về giao dịch kí quỹ được công bố trên Barron’s. Tuynhiên số liệu này không phản ánh khoản vay của người đầu tư từ những nguồnkhác như ngân hàng. Thêm vào đó đây cũng là con số tuyệt đối nên khó có thể sosánh theo thời gian. ● Một số chỉ báo thị trường khác + Độ rộng của thị trường Độ rộng của thị trường là chỉ báo về số lượng các cổ phiếu lên giá và sốlượng các cổ phiếu xuống giá trong mỗi ngày giao dịch. Chỉ báo này giúp cho việcgiải thích nguyên nhân sự đổi hướng của các chỉ số chứng khoán như DJIA hoặcS&P 500. Những chỉ số nổi tiếng trên thị trường thường chịu ảnh hưởng lớn từ cáccổ phiếu của các công ty lớn, bởi vì hấu hết các chỉ số đều được tính theo phươngpháp gia quyền giá trị. Như vậy có thể xảy ra trường hợp chỉ số tăng lên nhưngphần lớn các cổ phiếu thành phần lại không lên giá. Sự phân kì giữa giá trị của chỉsố chung và các cổ phiếu thành phần trở thành 1 vấn đề đáng quan tâm, vì điềunày có nghĩa là phần lớn các cổ phiếu không góp phần vào xu thế giá lên của thịtrường. Tình trạng này có thể được phát hiện bằng cách xem xét số liệu về tănggiảm giá của tất cả các cổ phiếu trên thị trường và đồng thời với chỉ số chung. + Tổng khối lượng bán khống (Short Interest) Tổng khối lượng bán khống là tổng khối lượng cổ phiếu hiện được bánkhống trên thị trường. Một số nhà phân tích kĩ thuật cho rằng khối lượng bánkhống cao là dấu hiệu tốt, song 1 số khác lại cho là dấu hiệu không tốt. Dấu hiệutốt là bởi mọi giao dịch bán khống sẽ phải được hoàn tất (nghĩa là những ngườibán khống cuối cùng sẽ phải mua cổ phiếu để hoàn trả lại số cổ phiếu họ đã vay).Do vậy tổng khối lượng bán khống phản ánh mức cầu tiềm năng trong tương laiđối với cổ phiếu. Khi các giao dịch bán khống được tất toán, mức cầu phát sinh doviệc mua cổ phiếu sẽ đẩy giá lên. Dấu hiệu không tốt là bởi trên thực tế những người bán khống thường lànhững người đầu tư lớn và có kĩ năng chuyên nghiệp. Theo đó tổng khối llượngbán khống gia tăng phản ánh trạng thái tâm lí của nhà đầu tư được coi là “amhiểu” về triển vọng thị trường giá xuống.2.3. Định giá chứng khoán 2.3.1. Định giá trái phiếu 2.3.1.1. Định giá trái phiếu ● Định giá trái phiếu thông thường Ở dạng thông thường trái phiếu có mệnh giá, thời hạn và lãi suất cuốngphiếu xác định, không kèm theo các điều kiện có thể chuyển đổi, có thể mua lạihay bán lại… Khi đó giá của trái phiếu bằng giá trị hiện tại của các luồng tiền dựtính sẽ nhận được từ công cụ tài chính đó. Vì vậy để xác định được mức giá tráiphiếu cần phải: - Ước tính các luồng tiền sẽ nhận được trong tương lai: Lãi trái phiếu vàmệnh giá trái phiếu khi đáo hạn. -Ước tính tỉ suất sinh lợi (lợi suất) đòi hỏi phù hợp. Công thức tổng quát để ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: